Picture shared at Vietnam Saigon's
Nhìn hình ảnh này càng hiểu ra lòng dân
lúc đó cũng bất bình với bọn phản chiến việt gian qua cái gọi là "phong
trào đòi hòa bình (âm mưu hòa bình chủ bại), đòi Mỹ rút quân về
nước, quyết khai tử VNCH đến giọt máu và hơi thở cuối cùng", trong số đó
phải kể tên các ông họ Thích của PG Ấn Quang như Quảng Độ, Hộ Giác, Trí
Quang, Nhất Hạnh, Đôn Hậu,... và đại việt gian phản chiến Võ Văn Ái.
Đây chính là sự thật hiển nhiên không gì
có thể thay đổi được. Cho dù ngày hôm nay đồng bào có "cúng dường hàng
triệu đô la" cho nhóm mạo danh họ Thích "ăn cơm quốc gia làm lợi cho ma
CS này" thì cũng không thay đổi được thực tế PHẢN QUỐC của chúng.
Xin đừng ai ngụy biện rằng chuyện xưa gác lại cùng nhau đoàn kết chống cộng. Bởi đó chính là sự ngụy biện HÈN HẠ đó. Đoàn kết sao được khi mà đến giờ phút này, những ông mạo danh họ Thích vẫn tiếp tục ngậm máu phun VNCH bằng những ngôn từ "ngoại bang" (Quảng Độ, 2011), "quân phiệt" (Võ Văn Ái, 2012)...
Xin đừng ai ngụy biện rằng chuyện xưa gác lại cùng nhau đoàn kết chống cộng. Bởi đó chính là sự ngụy biện HÈN HẠ đó. Đoàn kết sao được khi mà đến giờ phút này, những ông mạo danh họ Thích vẫn tiếp tục ngậm máu phun VNCH bằng những ngôn từ "ngoại bang" (Quảng Độ, 2011), "quân phiệt" (Võ Văn Ái, 2012)...
Chúng tôi, con cháu của VNCH sinh ra sau
cuộc chiến Quốc Cộng 1975. Cha anh chúng tôi đã đổ máu xương cho miền
Nam tự do, đã tuẫn tiết trong ngày 30.4.1975, bị những ông
mạo danh họ Thích sỉ nhục là "ngoại bang", là "quân phiệt" thì chúng
tôi sẽ không bao giờ cam tâm đứng nhìn. Với bọn người hạ cấp ngày đêm hạ
nhục, hùa nhau mạt sát Thiếu Tá CSQG TTH Liên Thành, một người lính
VNCH thật sự với tinh thần quốc gia, thành thật, và rất tự trọng mà
chúng tôi từng được biết, thì sẽ có một ngày chúng sẽ đền tội trước vong
linh của hơn 6000 oan hồn Huế Mậu Thân 1968 do đã cản đường cản lối
công việc truy tố CS của Th/Tá Liên Thành. Ngày đó không còn xa nhất là
đối với những kẻ gần đất xa trời.
Chứng Cớ PHẢN QUỐC của những tên mạo danh họ Thích
1- ** Thích Nhất Hạnh, Cao Ngọc Phượng, Thích Trí Quang, và THÍCH QUẢNG ĐỘ
đăng 3 bài báo phản chiến trên tờ New York Times trong cùng ngày 9
tháng 4 năm 1967. Chúng cắt máu Việt Nam Cộng Hòa bằng những ngôn từ
phản phúc rằng Việt Nam Cộng Hòa không hợp pháp và không nên tồn tại.
(Bấm vào hình bên dưới để mở lớn, xem mục số 4.)
Ở mục số 2: "nhân dân miền Nam muốn chiến tranh chấm dứt. Hầu hết không phải Việt cộng nhưng nếu không chấm dứt thì họ sẽ tham gia vào Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam."
Ở mục số 4: "chính quyền Nam Việt Nam hiện nay không phải là chính quyền của chúng tôi và không đại diện cho nhân dân chúng tôi. Nó được Mỹ áp đặt lên chúng tôi và được điều khiển bởi những tên lính đánh thuê cho Pháp chống lại nhân dân Việt Nam trước 1954. Nếu chúng tôi được bầu cử tự do, chính quyền này không tồn tại một ngày. Chúng tôi muốn tự chúng tôi giải quyết vấn đề Việt Nam của chúng tôi bằng cách điều đình với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Bắc Việt cũng như sự rút quân của Mỹ. "
** Ảnh phóng to một trong ba bài báo ghi rõ hai lãnh đạo cao cấp nhất của Ấn Quang là Cộng sản Trí Quang và Quảng Độ đồng ký tên trong bản tin rằng chúng không chấp nhận chính phủ Việt Nam Cộng Hòa .
Phần sau lá thư ký tên Thích Trí
Quang, Thích Quảng Độ viết: chúng tôi không chấp nhận cuộc chiến tranh
đang xảy ra mà trong đó có sự hiện diện của các quân đội nước ngoài
và quân đội bị ảnh hưởng bởi ngoại bang.
2-
Cuốn hồi ký của Lê văn Hảo, viết bằng tiếng Pháp, trích một số tài liệu liên quan đến Đôn Hậu trong Tập san Huế Passé et Présent số 37 trang 235-237 do Etudes Vietnamiennes của Nguyễn khắc Viện xuất bản năm 1973.
Thích Đôn Hậu giải bày theo giọng điệu CS dưới đây:
Tại sao tôi gia nhập
Liên Minh Lực Lượng Dân
Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam
(LMLLDTDCHBVN)
Thích Đôn Hậu, Phó Chủ Tịch
LMLLDTDCHBVN (20/05/1968) in « Huế : Passé et Présent : Etudes
vietnamiennes No 37, 1973, p.235-237 : « Pourquoi j’ai adhéré à
l’Alliance des Forces nationales démocratiques et de Paix du Viêt Nam).
[Dịch từ bản tiếng Pháp]
Kính gửi tất cả đồng bào miền Nam Việt Nam,
Đồng bào thân mến,
Nghe tin tôi gia nhập LMLLDTDCHBVN, tín
đồ phật giáo và những người ngoại giáo chắc là sẽ tự hỏi tại sao một
người già lão như tôi, tu hành đã bao nhiêu năm, mà thay vì hiến thân
trọn vẹn cho đạo giáo lại đi làm chính trị?
Theo tôi đó là một câu hỏi chí lý. Bởi
vì đi tu là từ bỏ chức quyền, danh vọng và của cải trần thế nầy để hiến
trọn đời sống cho việc thực hiện những lý tưởng đạo Phật.
Tuy nhiên, từ mười ba năm nay, những
chính thể lệ thuộc Mỹ từ Ngô Đình Diệm tới Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn Cao
Kỳ đã áp dụng một chính sách đán áp ngày càng khốc liệt và ác quái hơn
đối với các phật tử miền Nam Việt Nam vì các người nầy, thay vì thừa
nhận lũ độc tài, phản tôn giáo, phản tổ quốc nhân dân, đã chống lại bọn
họ.
Để bảo vệ tự do tin ngưỡng và tôn giáo
cổ truyền của dân tộc, phật giáo không ngừng tranh đấu, sẵn sàng hy
sinh mạng sống; nhưng mà những hình thức đấu tranh và hy sinh đó không
đánh động thiện chí và lương tâm những người chỉ biết dùng vũ lực và chỉ
nuôi những ý đồ đen tối.
Số phận của phật giáo và của dân tộc
thực ra không thể tách rời nhau. Trong khi đàn áp phật giáo, bè lũ ác
ôn làm tôi ngoại bang nầy đã ra mặt phản bội nhân dân và bán rẻ miền Nam
Việt Nam cho Mỹ. Điển hình là các Hội nghị thượng đỉnh Honolulu và
Manille đã cho phép quân Mỹ xâm chiếm tràn lan lãnh thổ quốc gia, can
thiệp trực tiếp vào việc nội bộ của nhân dân Việt Nam, chà đạp tự do và
độc lập quốc gia và kéo dài một cuộc chiến tranh bất tận và hết sức
tàn ác, phạm không biết bao nhiêu là tội ác man rợ đối với dân chúng.
Những đổ nát gây ra cho cả hai miền quốc gia chứng tỏ chưa bao giờ
nhân loại thấy người xâm lăng một nước nào lại khủng khiếp và man rợ
như người Mỹ.
Với chính sách diệt chủng, người Mỹ đã vi phạm nặng nề luật pháp quốc tế và xúc phạm trầm trọng lương tâm của nhân loại.
Đứng trước một tai nạn quốc gia như thế
thì cho dù một ông tu hành già cả như tôi không thể ẩn tu trong chùa.
Trong sách Phật có dạy: « Hãy dung hòa sự uyển chuyển của hành vi với
những nguyên tắc khắt khe ». Tôi nghiệm ra rằng với hai bàn tay không
và lòng nhân hậu giảng thuyết bất bạo động không thắng nổi lòng tham
lam và tính hiếu chiến của những người xâm lăng và những tên bội phản
tổ quốc đã đánh mất lương tâm.
Để cứu vãn đạo giáo và dân tộc, nhằm
chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hòa bình, đoàn kết nhân dân, dành lại chủ
quyền quốc gia, thực hiện một miền nam độc lập tự do, trung lập và
thịnh vượng tiến đến thống nhất quốc gia trong hòa bình, tôi cương
quyết gia nhập LMLLDTDCHBVN.
Ý thức tầm quan trọng của sự tham gia
của những người dân thiết tha yêu đạo và yêu nước vào sự tranh đấu chung
của nhân dân trong giờ phút quyết định này, tôi tha thiết kêu gọi đồng
bào trong và ngoài nước, đặc biệt là các phật tử và những dân cư
thành thị miền nam Việt Nam xiết chặt hàng ngũ trong LMLLDTDCHBVN,
tăng cường sức mạnh, đứng lên để chiến thắng tụi xâm lược Mỹ và bè lũ
tay sai, chiếm lại độc lập, tự do và hòa bình đích thực.
STATE.GOV - 16.3.1966
Dịch:
Bức điện tín từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gởi Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam
Washington, ngày 16.3.1966, 4:13 chiều
Bản Tuyên bố do Thích Hộ Giác đưa ra, theo báo cáo của Hãng Thông Tấn UPI, thề rằng cuộc đấu tranh của Phật giáo [phản loạn] sẽ kéo dài đến "giọt máu cuối cùng, hơi thở cuối cùng" (“to last drop of blood, to last breath”) để đạt cho được chương trình 4 điểm, trong đó, có một điểm là xóa bỏ chính phủ hiện tại [Việt Nam Cộng Hòa Đệ II] đã được chuyển đến các lãnh đạo cao nhất.
Chúng ta phải tìm cách nào để làm cho Phật giáo [phản loạn] hiểu rằng, sự can thiệp sâu xa của Mỹ nhằm bảo vệ quốc gia của họ khỏi rơi vào tay của Việt Cộng, thì không hứa hẹn gì với chính phủ hay quân đội của chính họ. Lúc này không phải là lúc đảo ngược tất cả mọi thứ mà những nổ lực thì đang bắt đầu cho thấy những kết quả khả quan. Hơn nữa, chính phủ Hoa Kỳ và chính phủ Kỳ đã và đang cam kết phát triển kinh tế và xã hội, điều mà quý vị Phật giáo [phản loạn] cũng đang khăng khăng đòi. Tuy nhiên, những phát triển này không thể đạt được chỉ qua 1 đêm và điều chắc chắn sẽ chẳng thể nào đạt được nếu Việt Cộng thắng cuộc chiến. Hơn nữa, những kết quả ấy chỉ bị đình trệ, chứ không đẩy nhanh, bởi phải bắt đầu mọi thứ lại từ đầu với một chính quyền mới. Nhóm Phật giáo [phản loạn] phải được cho biết rằng những khả năng của chúng ta trong việc tiếp tục giúp nhân dân Việt Nam tự vệ và phát triển quốc gia là thực sự tùy thuộc rất nhiều vào thiện ý của họ. Cũng như, việc họ nên đặt những dị biệt sang một bên và cùng nhau làm việc.
Với sự cân nhắc của bạn, bạn được quyền truyền đạt đến Thích Trí Quang và các cơ sở Phật giáo cũng như các lãnh đạo thế tục mà bạn thấy tiện lợi. Cân nhắc của Tổng Thống thế này, nếu họ từ chối theo hình thức vô trách nhiệm và theo đường lối phá hoại, không những họ sẽ đánh mất sự thiện cảm công khai và chính thức mà Hoa Kỳ dành cho họ từ trước đến nay, mà có thể họ còn tạo nên tình hình hỗn loạn và vô chính phủ. Điều này sẽ làm cho sự hổ trợ của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam không còn hiệu quả nữa. Tổng Thống hy vọng rằng họ sẽ nhận thức sâu sắc vấn đề này, không chỉ như những người Việt Nam yêu nước quan tâm đến tương lai của đất nước mà còn như những lãnh đạo tôn giáo biết quan tâm đến tương lai của tín đồ cũng là điều mà giáo lý dạy.
Rusk
[Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ]
http://history.state.gov/historicaldocuments/frus1964-68v04/d96
LIFE - 22.4.1966
Dịch: Khi những cuộc biểu tình hoành hành dữ dội, nhóm Phật giáo [phản loạn] công khai tuyên bố rằng chính họ đứng sau lưng tình trạng gây náo loạn này. Những lãnh đạo hàng đầu là Thích Trí Quang (hình dưới), người tạo ra việc lật đổ Tổng Thống Diệm. Thích Tâm Châu (phải) và Thích Thiện Minh (phía xa phải). Trang kia, Thích Hộ Giác đang nói với đám đông rằng những cuộc biểu tình tương lai sẽ được lên kế hoạch một cách chiến lược bởi Phật giáo [phản loạn].
http://books.google.com/books?id=IlYEAAAAMBAJ&lpg=PA36&dq=%22Thich%20Ho%20Giac%22&pg=PA37#v=onepage&q&f=true
Lược dịch: Thích Hộ Giác từng thành
lập Đảng chính trị Phật giáo [phản loạn] (a Buddhist political party)
mang tên "Vietnamese Buddhist Force" và giữ chức Phó chủ tịch đảng này.
King, S., & Queen, C. (Eds.). (1996). Engaged Buddhism: Buddhist Liberation Movements in Asia. New York: State University of New York.
Xem thêm:
Những điều nên biết - Thích Quảng Độ và những hoạt động đâm sau lưng hai chính thể Việt Nam Cộng Hòa
Tài liệu Thích Đôn Hậu thuyết trình giựt dây Phật tử triệt hạ hai chính thể VNCH I & II
Thích Hộ Giác và PGVNTN trong Việc Loại Trừ Chính Phủ VNCH Đến Giọt Máu và Hơi Thở Cuối Cùng
Sự thật về ông Thích Đôn Hậu [Bổ túc links tài liệu [i] và [ii]]
3- Trích Bạch Thư của Hòa Thượng Thích Tâm Châu, đoạn nói về tội ác của nhóm tranh đấu Ấn Quang (tức Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ngày nay) đã gây ra cho Phật giáo và Quốc gia
Hòa Thượng Thích Tâm Châu. (Trích từ trang 27-39)
Nhà xuất bản: Tổ Đình Từ Quang
2176 Ontario East
Montréal, Québec H2K 1V6, Canada
Nhà xuất bản: Tổ Đình Từ Quang
2176 Ontario East
Montréal, Québec H2K 1V6, Canada
6) Đại Nạn Của Phật Giáo và đất Nước.
Sang năm 1966, Đại Hội Giáo Hội lại
bắt buộc tôi phải làm Viện Trưởng thêm một nhiệm kỳ nữa. Giáo Hội e
ngại các tướng lãnh tranh giành ảnh hưởng nhau, không thể có cơ sở vững
vàng để xây dựng đất nước được, Giáo Hội yêu cầu Hội Đồng Lập Hiến.
Sự yêu cầu này được phát động khắp các cấp Giáo Hội. Nhưng chỉ trong
vài tháng việc yêu cầu bầu cử Quốc Hội Lập Hiến đã được Chính Quyền
các Tướng lãnh chấp nhận vào ngày 14-4-1966.
Sau khi phong trào bầu cử Quốc Hội
Lập Hiến đã được thỏa mãn, nhân danh Viện Trưởng, tôi đã gửi thư thông
cáo tới các nơi biết: ngưng sự tranh đấu, và chỉ đặt các chương trình
xây dựng đạo pháp mà thôi.
Ngày 2 tháng 5 năm 1966 tôi đáp máy
bay sang Colombo, thủ đô nước Tích Lan, cùng đại biểu Tăng Già các
nước soạn thảo Hiến Chương và thành lập Giáo Hội Tăng Già Thế Giới bắt
đầu từ ngày 6-5-1966. và tôi đảm trách chức vụ Phó Chủ Tịch.
Từ Tích Lan trở về, tôi ghé thăm Malaysia và Singapore để cảm ơn sự hộ trợ tinh thần trong cuộc tranh đấu 1963 vừa qua.
Vào 11 giờ sáng ngày 29-5-1966, tôi
về tới Saigon, được tin đang có biểu tình trong thành phố Saigon và
một số nơi khác tại miền Trung. Tôi không hiểu, khi tôi đi vắng, ở nhà
có Thượng Tọa Trí Quang, Thượng Tọa Thiện Minh, do đâu lại phát động
lại phong trào tranh đấu?
Tôi về tới VN Quốc Tự, bước chân vào cửa văn phòng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo của tôi thì có một biểu ngữ nền vàng chữ đỏ ghi: “Muốn quần chúng tuân theo kỷ luật thì phải theo quần chúng”. Tôi vào tới bàn giấy của tôi thì có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư: “Yêu cầu các Thượng tọa trong Viện Hóa Đạo, không được theo Thượng tọa Tâm Châu”.
Tôi định lên chánh điện VN Quốc Tự
lễ Phật, tại đây có mấy các vị Tăng thanh niên không cho tôi vào chánh
điện VN Quốc Tự và hăm dọa, ai muốn vào chùa hãy bước qua xác chết của
họ.
Tôi vô cùng chán nản, không biết cách nào vãn hồi trật tự được. Tôi trở về chùa Từ Quang. Về chùa Từ Quang cũng có một đĩa máu, một con dao và huyết thư “Cấm tôi không được hoạt động nữa”. Và, người trong chùa cho biết là họ hăm dọa sẽ đốt xe, ám sát. Và, chính các vị Tăng thanh niên đang tụ tập tại Niệm Phật Đường Quảng Đức (Bàn Cờ) định sang chùa Từ Quang giết tôi. May có Sư Cô Vân biết được, cấp báo cho tôi biết. Tôi trốn thoát. (4)
Từ đó, tôi phải đi nghỉ, nay tại nhà này, mai tại nhà khác, nay tại Viện Nhu Đạo Quang Trung, mai tại Nha Tuyên Úy Phật Giáo.
Từ đó, VN Quốc Tự bị Tăng Ni và quần chúng theo CS nắm giữ, thao túng, liên tục ngày này qua ngày khác, ra đường Trần Quốc Toản, ngã 6 Saigon – Chợ Lớn biểu tình, đả đảo và đốt hình nộm Tổng Thống Mỹ, Tướng Thiệu, Tướng Kỳ. Tôi không dám tới và làm việc tại VN Quốc Tự nữa.
Tại Huế, Đà Nẵng và vài nơi khác tại
miền Trung cũng vậy, không sao vãn hồi được trật tự. Lại thêm, sự
xích mích giữa Tướng Nguyễn Chánh Thi và các Tướng tại Saigon. Nhóm
Lập Trường ở Huế ra đời, đòi hỏi bầu Quốc Hội, đòi hỏi ngưng chiến
tranh.
Kết cuộc, các Tướng Saigon mang quân ra vãn hồi trật tự miền Trung. Thượng
Tọa Trí Quang cùng nhóm tranh đấu tại Huế, kêu gọi Phật tử đem bàn
thờ Phật ra đường, để ngăn cản bước tiến của Quân Đội Chính Phủ, cho
các cán bộ CS nằm vùng, trà trộn tẩu thoát.
Phong trào mang bàn thờ Phật ra đường lan tràn khắp nơi và vào cả đến Saigon. Tại Saigon họ đem ảnh Phật ra để trên đống rác.
Nhìn cảnh tượng ấy tôi cảm thấy đau
lòng, liền ra một thông bạch yêu cầu Phật tử không nên đem Phật ra
đường. Thượng Tọa Thích Thiện Hoa Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo đột
nhiên ra một thông báo tán thành việc đem Phật ra đường. (5)
Tại Đà Nẵng cũng như một số nơi
khác, ngoài việc đem Phật ra đường, còn ghìm súng, nấp sau tượng Phật
bắn ra, khi quân đội tiến vào kiểm soát chùa.
Đem Phật ra đường rồi, Thượng Tọa
Trí Quang vào Tòa Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên tuyệt thực. Sau, chính phủ
đưa Thượng Tọa Trí Quang vào Saigon, ở nhà bác sĩ Nguyễn Duy Tài.
Thượng Tọa vẫn duy trì việc tuyệt thực (có uống nước thuốc dưỡng sức),
cho đến khi chính phủ quân nhân y lời hứa hồi tháng 4-1966, bầu cử
Quốc Hội Lập Hiến vào ngày 3-9-1966.
Sau khi thanh toán sự hỗn loạn tại
Huế và một số tỉnh khác tại miền Trung, thì tại Đô thành Saigon, chính
phủ cũng thanh toán xong nhóm náo loạn tại VN Quốc Tự. Tòa Đô Chính
Saigon chính thức viết thư xin lỗi Giáo Hội: “Vì nạn bất đắc dĩ phải
thanh toán nhóm náo loạn tại VN Quốc Tự, chứ thực tâm, chính phủ không
dám xâm phạm vào tôn giáo”.
Tôi trở về làm việc tại VN Quốc Tự,
nhưng một số các vị tranh đấu nhất định không về. Các vị cho rằng,
chính phủ xúc phạm đến tôn giáo và cho tôi là thân Chính Quyền. Tại
miền Trung, Thượng Tọa Trí Quang cho tuyên truyền rằng: “Mỹ mua đứt Tâm
Châu với 3 triệu Mỹ kim và cho tôi là cậu của Tướng Nguyễn Cao Kỳ,
đem quân đội ra tàn sát Phật tử miền Trung v.v…”.
Đó là chỗ nẩy sinh ra sự mâu thuẫn
giữa tôi và các vị tranh đấu. Từ chỗ mâu thuẫn ấy, tại Saigon, Thượng
Tọa Trí Quang và nhóm tranh đấu vu khống cho tôi là người Mỹ cho tôi 1
triệu Mỹ kim và trả lương cho tôi mỗi tháng là 20 ngàn Mỹ kim. Thực
ra, tôi chưa được một dollar của Mỹ, chứ nói chi đến vạn, đến triệu.
(6)
Tôi vẫn nhẫn nại làm việc, tuân theo
lời dạy của Hòa Thượng Tăng Thống Thích Tịnh Khiết triệu tập Đại Hội
Giáo Hội tại VN Quốc Tự từ chiều 21-10-1966.
Buổi chiều ngày 22-10-1966, Đại Hội mới duyệt xét chương trình nghị sự xong.
Bất ngờ, 3 giờ sáng ngày 23-10-1966,
tại chùa Ấn Quang một số các Thượng Tọa đã lén lút thành lập Hội Đồng
Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất và đề cử Thượng Tọa
Thích Thiện Hoa làm Viện Trưởng, coi như lật đổ tôi. Từ đó có ra Viện
Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất tại Ấn Quang.
Vậy, đâu là chỗ chia đôi và lũng đoạn Giáo Hội Thống Nhất?
Sau đó, Viện Hóa Đạo Ấn Quang chuyển hướng theo đường hướng “Hòa Bình Khuynh Tả”.
Viện Hóa Đạo Ấn Quang cử các vị ra
nước ngoài liên lạc với các nhóm phản chiến, yêu cầu Mỹ rút quân, phản
đối chính sách chống Cộng của VNCH, đòi hòa bình. Viện Hóa Đạo Ấn
Quang cử Thượng Tọa Nhất Hạnh làm Trưởng Phái Đoàn Hòa Bình bên cạnh
Hòa Đàm Paris.
Ấn Quang là một Phật Học Đường danh
tiếng, cung ứng cho nhu cầu phát triển Phật Giáo miền Nam rất nhiềụ
Nhưng từ nửa năm 1966 trở đi, Ấn Quang đã bị cưỡng ép làm nơi tranh đấu
của các vị ưa tranh đấu. Sang năm 1967, tôi triệu tập 8 Giáo Phái,
Hội Đoàn tại VN Quốc Tự, tuyên bố rút lui chức Viện Trưởng Viện Hóa
Đạo Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất. Đại Hội đề cử Thượng Tọa Thích
Thiện Tường (người Nam), lên thay thế tôi làm Viện Trưởng. Và, Đại Hội
này nhận thấy Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất đã bị chủ
trương “nhất thống”, tiêu diệt các Giáo Phái, Hội Đoàn, nên Đại Hội đã
tu chính bản Hiến Chương ấy, cho phù hợp với các Giáo Phái, Hội Đoàn.
Bản Hiến Chương tu chính này được thông báo cho chính phủ của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu biết.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký sắc luật 23/67 ngày 18/7/1967, công nhận Hiến Chương ấy.
Sau khi rút lui khỏi Viện Hóa Đạo,
tôi trở ra chùa Từ Quang Vũng Tàu của tôi, vui cùng cảnh vật thiên
nhiên, cho vơi bớt những sự ưu tư, vất vả.
Tại Saigon, Giáo Hội Thống Nhất Ấn
Quang lại phát động phong trào tranh đấu, đòi hỏi không được tu chính
Hiến Chương. (Thực vô lý, Ấn Quang chỉ có 3 Giáo Phái, Hội Đòan, mặc dù
Tăng Ni Phật tử đông. VN Quốc Tự có 8 Giáo Phái, Hội Đoàn – dù rằng
người ít – vẫn có quyền tu chính Hiến Chương, chứ không phải hủy bỏ
Hiến chương).
Đùng một cái, một hôm vào khoảng 7
giờ tối, một số Tăng tại chùa Ấn Quang, được sự hộ trợ của các dân biểu
thân Ấn Quang có súng, như Kiều Mộng Thu v.v… đột nhập vào VN Quốc Tự
bắt thượng Tọa Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Thích Thiện Tường, cùng với
rất đông chư Tăng, đem về nhốt tại chùa Ấn Quang.
Ngày hôm sau, Nha Tuyên Úy Phật Giáo
can thiệp, mời các vị Ấn Quang ra khỏi VN Quốc Tự. Sau đó, Giáo Hội
Thống Nhất tại VN Quốc Tự lại phải đề cử Thượng Tọa Thích Minh Thành
(người Nam) lên làm Viện Trưởng.
Vẫn chưa yên.
Lại một hôm khác, vào chập tối, phe
Ấn Quang lại đem người, đem khí giới, tái chiếm VN Quốc Tự một lần nữa
Lần này họ bắt hết Tăng chúng, lấy hết đồ đạc, nhiều máy may của VN
Quốc Tự và đốt cháy một dãy nhà phía tay trái Quốc Tự.
Nha Tuyên Úy Phật Giáo lại phải can thiệp để vãn hồi trật tự.
Sau biến cố này, Giáo Hội Thống Nhất
tại VN Quốc Tự phải đề cử Thượng Tọa Thích Tâm Giác, Giám Đốc Nha
Tuyên Úy Phật Giáo, kiêm nhiệm Viện Trưởng Viện Hóa Đạ, mới yên.
Hai lần Ấn Quang đánh phá VN Quốc Tự như trên, hỏi ai làm nhơ nhớp cho lịch sử Phật Giáo VN ?
Sự việc rõ ràng như thanh thiên bạch
nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hộ trợ ngầm của CS nằm
vùng, lải nhải vu khống cho VN Quốc Tự chia rẽ Giáo Hội, Thích Tâm
Châu phá hoại và lũng đoạn Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất. Thực như
câu phương ngôn của VN thường nói: “Vừa đánh trống vừa ăn cướp, vừa ăn
cướp vừa la làng”. Cậy đông, lấy thịt đè người, mặc sức vu khống,
thao túng không coi nhân quả là chi cả!
Cho đến nỗi những vị Tăng không biết
chút gì về việc tranh đấu, việc xây dựng Giáo Hội, cũng như các vị
Tăng, Ni Phật – từ ở xa, hay sau này, cũng a dua, hùa theo sự tuyên
truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và CS nằm vùng trong suốt
hơn 30 năm naỵ Thực tội nghiệp!
Nói thẳng thắn, cuộc chiến tranh
Quốc Cộng tại VN, không có một tôn giáo, một đoàn thể nào, không bị CS
nằm vùng gây chia rẽ, phá hoạị Thiên Chúa Giáo có những cán bộ gộc nằm
vùng như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng v.v… Phật Giáo cũng vậy, CS nằm
vùng từ thượng tầng, tới hạ tầng, càng dễ dàng hơn.
Thực sự, cuộc tranh đấu từ tháng 6-1966, cho đến nay chia đôi Giáo Hội, đều do bàn tay CS đạo diễn, làm hại cho Phật Giáo và quốc gia VN không nhỏ. Vì vậy, Phật Giáo không phải là không có trách nhiệm, liên đới đến sự để mất VNCH cho CS.
Vấn đề này, chính Hòa Thượng Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi nhắc lại: “CS từng tuyên bố: “Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với Cách Mạng”.
* Vấn đề hòa hợp hòa giải và các tạp sự sau đó.
Đầu thập kỷ 1970. hòa đàm Paris đang
tiến đến hồi mặc cả có lợi nhiều cho CS, thì tại VN phe tranh đấu Ấn
Quang, do Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh đạo, đã cho thành lập phong
trào Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc, do ông Vũ Văn Mẫu được coi là Thủ
Lãnh.
Phong trào này không được sự tán
thành của hai Thượng Tọa Thiện-Minh và Huyền-Quang. Vì hai Thượng Tọa
này không tán thành phong trào Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc, nên Thượng Tọa
Trí-Quang và phe nhóm của Thượng-Tọa đã tung ra một chiến dịch bôi
bẩn Thượng-Tọa Thiện-Minh và Thượng-Tọa Huyền-Quang một cách tàn nhẫn.
Cũng vì chiến dịch này, trong suốt một năm, Giáo Hội Thống Nhất Ấn
Quang không thể triệu tập được Đại Hội để bầu cử chức vụ Viện Trưởng
Viện Hóa Đạo vì Thượng Tọa Thích Thiện Hoa đã viên tịch, khiến cho
Thượng Tọa Thích Trí Thủ là một vị Tổng Vụ Trưởng phải đứng lên xử lý
thường vụ.
Tình hình biến chuyển hoàn toàn bất
lợi cho VNCH. Ngày 30-4-1975, là ngày cáo chung của chế độ VNCH. Những
bộ mặt thân CS đã lộ rõ nguyên hình, không ai mà không rõ.
- Khi quân CS từ rừng về Saigon, đã có lần 500 Tăng, Ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra đón chào.
- Ngày 19-5-1975, phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn Quang.
- Hiệp Thương Chính Trị thống nhất
hai miền Nam-Bắc của CS, một Thượng Tọa của phe Ấn Quang đã làm một bài
tham luận, nịnh CS, kể công của Ấn Quang và đả kích Nha Tuyên Úy Phật
Giáo cùng Giáo Hội Thích Tâm Châu.
- Vào khoảng năm 1980, 1981, chính
Thượng Tọa Thích Trí Thủ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Ấn Quang cùng các vị
cao cấp nhất phe tranh đấu Ấn Quang đã tích cực vận động thành lập và
tham gia vào Giáo Hội Phật Giáo VN tại chùa Quán Sứ (Hà Nội), mà người
ta thường gọi là “Giáo Hội Quốc Doanh”, hay “Giáo Hội Nhà Nước”.
Chỉ có các Thượng Tọa: Thiện Minh, Huyền Quang, Đức Nhuận, Quảng Độ
và một số nhỏ các vị khác không tán thành, nên bị bắt hay bị giết.
- Vào khoảng năm 1986, 1987, Ông
Gorbachev, Tổng Bí Thư Đảng CS Liên Xô chủ trương cởi mở, thì tại VN
ông Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí Thư Đảng CSVN cũng theo chủ trương ấỵ Sau
đó, Chủ Nghĩa CS bị tan rã tại Nga, tại Đông Âu, thì tại VN, hình thức
chuyển hướng là sự cần thiết để sống còn của ho.. Họ đã cho các chùa
được sinh hoạt tín ngưỡng một phần nào, trả một số cơ sở cho các chùa,
cho một số thanh niên Tăng, Ni được học hỏi Phật Pháp. Và, có thể
bước đầu thí nghiệm của họ, họ cho một số người nào đó, đòi hỏi quyền
tự do dân chủ, để tiện dịp nhận diện những người quyết tâm tranh đấu,
để có thể triệt hạ sau này.
Hòa Thượng Thích Đôn Hậu đã khơi mở
ra phong trào Phật Giáo Thống Nhất tại hải ngoại, và Hòa Thượng Thích
Huyền Quang tiếp nối sự nghiệp ấy.
Tại Hoa Kỳ cũng tổ chức thống nhất rầm rộ. Kết cuộc có ra hai, ba Giáo Hội Thống Nhất.
Tại Âu Châu, có nhiều Giáo Phái hoạt
động riêng biệt. Nhưng có một số chùa, có các vị Tăng trung niên và
thanh niên, kết hợp thành Giáo Hội Thống Nhất Âu Châu.
Tại Úc, dân số VN ty nạn vào khoảng
150 ngàn người, Giáo Hội Thống Nhất Úc và Tân Tây Lan đã thành hình,
với số Tăng, Ni ít ỏi, số chùa độ trên mươi ngôi, và trong những ngày
đại lễ, số chùa độ trên mươi ngôi, và trong những ngày đại lễ, số Phật
tử tới các chùa, tính chung lại vào khoảng 7, 8 ngàn người. Nội bộ
Giáo Hội thì không ổn định và có vẻ phức tạp.
Hòa Thượng Thích Huyền Quang tại VN,
đang là người trỗi lên, đòi lại danh xưng và sự phục hoạt của Giáo
Hội Phật Giáo VN Thống Nhất. Hòa Thượng là người đầy đảm lược, đầy
kinh nghiệm với chủ nghĩa CS. Tôi rất kính mến Hòa Thượng. Tôi đã viết
thư khích lệ Hòa Thượng. Tôi luôn luôn cầu nguyện cho việc làm của
Hòa Thượng được thành công viên mãn.
Cuộc tranh đấu hiện nay tại VN do
Hòa Thượng Huyền Quang lãnh đạo thực vô cùng khó khăn. Khó khăn bởi bao
mưu cơ, sảo thuật của Thích trí Quang cũ, nằm trong Giáo Hội Nhà
Nước, ngăn trở. Khó khăn bởi Hiến Chương CS bao vâỵ Khó khăn ngay
trong nội bộ Giáo Hội Thống Nhất Ấn ”Tập quyền, kỳ thị” thiếu thiện
cảm với các Giáo Phái Phật Giáo khác. Và, có thể có khó khăn với các
tôn giáo khác, qua những nhận xét sâu xa. (7)
Tuy nhiên, CS là kẻ thù chung của
nhân loại. Nhân loại xóa bỏ những mặc cảm riêng tư, và tích cực phục vụ
chung cho chính nghĩa. Chính nghĩa quyết thắng. Chủ nghĩa CS không
sao tránh khỏi luật đào thải, và chắc chắn phải nhường chỗ cho thể chế
tự do, dân chủ của toàn dân VN.
* Kết luận
Giáo Pháp của đức Phật Thích Ca Mưu
Ni thấm nhuần vào lòng dân VN đã gần hai ngàn năm. Phật Giáo đã hòa
đồng cùng vận mệnh thịnh suy của dân tộc. Phật Giáo đã sản sinh những
nhân vật đức hài hòa trong sự nghiệp cứu nước và dựng nước. Nhưng, đôi
khi, Phật Giáo cũng bị những nhân vật cậy tài, ỷ thế, kỳ thị, thiếu
sáng suốt, thiếu hỷ xả, gây tan nát cho đạo giáo và Quốc Gia không ít.
Phật Giáo tôn trọng tự do nhân chủ tuyệt đối, không chủ trương “tập quyền” cho một cá nhân hay một nhóm người. Vì, hễ có tập quyền là có độc tài, có bè phái, có những thủ đoạn để củng cố quyền lực.
Gần một thế kỷ nay, nhân loại bị đau khổ đến cùng cực bởi nạn “tập quyền” của CS. Ba mươi năm nay Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất chủ trương “tập quyền”,
chưa thấy đem lại tia hy vọng hòa hợp và an lạc cho đại chúng. Phật
Giáo VN tại Hoa Kỳ triền miên trong sự chia rẽ, đã có hai, ba tổ chức
thống nhất. Phật Giáo VN tại Úc, “tập quyền” thống nhất trong tay một
nhân vật tham độc, thiếu tài đức, gây bè phái, kỳ thị Trung, Bắc, hãm
hại huynh đệ đồng đạo, mặc cho gần trăm ngàn Phật tử VN tỵ nạn tại Úc
không nơi nương tựa, mặc cho danh dự Phật Giáo VN bị tổn thương nặng
nề!
Ôi, Phật Giáo VN ! Ôi, Phật Giáo VN!
Ai gây chi lắm niềm đau khổ,
Vũ trụ nài van đến nghẹn lời!
(Lửa thiêng đạo mầu)
Kính bạch Quý Ngài,
Kính thưa Quý vị,
Bạch thư này viết ra trong hoàn cảnh
bất đắc dĩ. Bạch thư này được viết ra bằng những giòng lệ nóng thương
đời, thương đạọ Bạch thư này ra đời, có người ưa có người không ưa,
vì sự thật mất lòng. Nhưng, giả dối phải nhường chỗ cho sự thật, để
cho Quốc Gia, cho Đạo Pháp được trường tồn, cho nhân dân VN được thức
tỉnh, và cho nhân loại được hưởng niềm an lạc của chính pháp.
Cầu nguyện Tam Bảo từ bi gia hộ,
chuyển hóa đất nước VN, đạo giáo VN, nhân dân VN sớm thoát khỏi ách CS,
thành một nước tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc và thịnh vượng.
Chuyển hóa tâm niệm của các cấp Phật Giáo trong và ngoài nước, biết rõ
mình, như lời Phật dạy, tiến tu và đạt tới đích giác ngộ, giải thoát.
Cầu mong Quý Ngài và Quý vị luôn luôn được niềm an vui như ý, trong
ánh đạo từ bi và trí tuệ.
Thành thực cảm ơn qúy ngài và qúy vị.
Trân Trọng,
Ký tên
Hòa Thượng Thích Tâm Châu
Ghi-chú:
(4) Việc định ám sát tôi, sau này có
Thầy Thiện-Lực đến sám-hối với tôi và có một vài Thầy khác hiện nay
cũng có mặt ở ngoại quốc.
(5) Cảnh tượng đem Phật xuống đường,
không những tôi, nhiều người đau lòng, thế giới Phật-Giáo đau lòng,
mà cả Đại-Đức Thích-Quảng-Thành, cũng trong Iá thư viết cho Thượng-Tọa
Trí-Quang, ngày 31-12-1973, Đại-Đức nói: “Năm 1966, con
(Thích-Quảng-Thành) nghĩ Thượng-Tọa (Thích-Trí-Quang) đã làm một việc
sai lầm, khi phát-động phong-trào đem Phật xuống đường, dùng một
biểu-tượng linh-thiêng, để giải-quyết những tranh-chấp trần-thế.” Gần
cuối lá thư, Đại-Đức Thích-Quảng-Thành với tính-tình trung-trực đã viết:
“Đến nỗi hiện giờ anh em chúng con so sánh Thượng Tọa
(Thích-Trí-Quang) với nhân vật “NHẠC-BẤT-QUẦN” , trong tiểu thuyết nổi
danh của Kim-Dung. Nhạc-Bất-Quần là chưởng môn của một võ-phái nổi
tiếng và được giới giang-hồ xưng tụng là “quân-tử-kiếm”, vì lối đánh và
đường kiếm của ông rất quân-tử. Tuy nhiên mọi người đều lầm. Sau một
thời gian mấy mươi năm, ông đã lộ chân tướng của ông là một
“ngụy-quân-tử”, với những mưu mô và thủ-đoạn cực ác và cực nham-hiểm.”
(6) Việc vu khống cho tôi ăn đô-la
của Mỹ, chư Tăng, Ni, Phật-Tử miền Trung cho tôi biết và vừa đây có một
Phật-Tử Huế, đang tại Úc cũng xác-nhận với tôi là có sự tuyên truyền
ấy. Tại Sàigon, chính Đại-Đức Hộ-Giác (bây giờ đã là Hòa-Thượng) đã
cho tôi biết là Thượng-Tọa Trí-Quang nói trước Hội-Đồng Viện-Hóa-Đạo.
Thượng-Tọa nói là Thượng-Tọa được nghe vậy!
(7) Trong đơn xin cứu xét của
Hòa-Thượng Huyền-Quang gởi lên Tổng-Bí-Thư Đảng Cộng-Sản và Nhà Nước
Việt-Nam, ngày 24-6-1992, Hòa-Thượng có viết: “– Thời Pháp đến Việt-Nam lần thứ hai đã lập ra Giáp-Hội Thiền-Lữ. – Ngô-Đình-Diệm đã lập ra Giáo-Hội Cổ-Sơn-Môn. Thời Diệm không Diệm đã lập ra Giáo-Hội tại Việt-Nam Quốc-Tự
(Hòa-Thượng ám-chỉ thời-kỳ Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu đã ra sắc-luật
công nhận bản tu-chính Hiến-Chương năm 1967 của Việt-Nam Quốc-Tự.
Nhưng đó là sự sai-lầm, chuyển bạn thành thù). Hoà-Thượng còn so sánh với Thiên-Chúa-Giáo: “Nhà nước đã không làm việc cải-tạo với Thiên-Chúa-Giáo, mà còn lập lại ngoại-giao với Thiên-Chúa-Giáo...”
Nguyên gốc:
THÍCH TÂM CHÂU: BẠCH THƯ VỀ VẤN ĐỀ CHIA RẼ GIỮA ẤN QUANG VỚI VIỆT NAM QUỐC TỰ
Nhân Ngày Ký Hiệp Định Paris 27.1.1973: Nói về những kẻ thực hiện Âm Mưu Hòa Bình Chủ Bại
CỘNG ĐỒNG, Giáo-hội PGVNTN, TRONG NƯỚC 1/24/2013
(Xem: 775) -
Ở mục số 2: "nhân dân miền Nam muốn chiến tranh chấm dứt. Hầu hết không phải Việt cộng nhưng nếu không chấm dứt thì họ sẽ tham gia vào Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam."
Ở mục số 4: "chính quyền Nam Việt Nam hiện nay không phải là chính quyền của chúng tôi và không đại diện cho nhân dân chúng tôi. Nó được Mỹ áp đặt lên chúng tôi và được điều khiển bởi những tên lính đánh thuê cho Pháp chống lại nhân dân Việt Nam trước 1954. Nếu chúng tôi được bầu cử tự do, chính quyền này không tồn tại một ngày. Chúng tôi muốn tự chúng tôi giải quyết vấn đề Việt Nam của chúng tôi bằng cách điều đình với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Bắc Việt cũng như sự rút quân của Mỹ. "
** Ảnh phóng to một trong ba bài báo ghi rõ hai lãnh đạo cao cấp nhất của Ấn Quang là Cộng sản Trí Quang và Quảng Độ đồng ký tên trong bản tin rằng chúng không chấp nhận chính phủ Việt Nam Cộng Hòa .
Dịch:
Bức điện tín từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gởi Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam
Bản Tuyên bố do Thích Hộ Giác đưa ra, theo báo cáo của Hãng Thông Tấn UPI, thề rằng cuộc đấu tranh của Phật giáo [phản loạn] sẽ kéo dài đến "giọt máu cuối cùng, hơi thở cuối cùng" (“to last drop of blood, to last breath”) để đạt cho được chương trình 4 điểm, trong đó, có một điểm là xóa bỏ chính phủ hiện tại [Việt Nam Cộng Hòa Đệ II] đã được chuyển đến các lãnh đạo cao nhất.
Chúng ta phải tìm cách nào để làm cho Phật giáo [phản loạn] hiểu rằng, sự can thiệp sâu xa của Mỹ nhằm bảo vệ quốc gia của họ khỏi rơi vào tay của Việt Cộng, thì không hứa hẹn gì với chính phủ hay quân đội của chính họ. Lúc này không phải là lúc đảo ngược tất cả mọi thứ mà những nổ lực thì đang bắt đầu cho thấy những kết quả khả quan. Hơn nữa, chính phủ Hoa Kỳ và chính phủ Kỳ đã và đang cam kết phát triển kinh tế và xã hội, điều mà quý vị Phật giáo [phản loạn] cũng đang khăng khăng đòi. Tuy nhiên, những phát triển này không thể đạt được chỉ qua 1 đêm và điều chắc chắn sẽ chẳng thể nào đạt được nếu Việt Cộng thắng cuộc chiến. Hơn nữa, những kết quả ấy chỉ bị đình trệ, chứ không đẩy nhanh, bởi phải bắt đầu mọi thứ lại từ đầu với một chính quyền mới. Nhóm Phật giáo [phản loạn] phải được cho biết rằng những khả năng của chúng ta trong việc tiếp tục giúp nhân dân Việt Nam tự vệ và phát triển quốc gia là thực sự tùy thuộc rất nhiều vào thiện ý của họ. Cũng như, việc họ nên đặt những dị biệt sang một bên và cùng nhau làm việc.
Với sự cân nhắc của bạn, bạn được quyền truyền đạt đến Thích Trí Quang và các cơ sở Phật giáo cũng như các lãnh đạo thế tục mà bạn thấy tiện lợi. Cân nhắc của Tổng Thống thế này, nếu họ từ chối theo hình thức vô trách nhiệm và theo đường lối phá hoại, không những họ sẽ đánh mất sự thiện cảm công khai và chính thức mà Hoa Kỳ dành cho họ từ trước đến nay, mà có thể họ còn tạo nên tình hình hỗn loạn và vô chính phủ. Điều này sẽ làm cho sự hổ trợ của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam không còn hiệu quả nữa. Tổng Thống hy vọng rằng họ sẽ nhận thức sâu sắc vấn đề này, không chỉ như những người Việt Nam yêu nước quan tâm đến tương lai của đất nước mà còn như những lãnh đạo tôn giáo biết quan tâm đến tương lai của tín đồ cũng là điều mà giáo lý dạy.
Rusk
[Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ]
http://history.state.gov/historicaldocuments/frus1964-68v04/d96
LIFE - 22.4.1966
Dịch: Khi những cuộc biểu tình hoành hành dữ dội, nhóm Phật giáo [phản loạn] công khai tuyên bố rằng chính họ đứng sau lưng tình trạng gây náo loạn này. Những lãnh đạo hàng đầu là Thích Trí Quang (hình dưới), người tạo ra việc lật đổ Tổng Thống Diệm. Thích Tâm Châu (phải) và Thích Thiện Minh (phía xa phải). Trang kia, Thích Hộ Giác đang nói với đám đông rằng những cuộc biểu tình tương lai sẽ được lên kế hoạch một cách chiến lược bởi Phật giáo [phản loạn].
http://books.google.com/books?id=IlYEAAAAMBAJ&lpg=PA36&dq=%22Thich%20Ho%20Giac%22&pg=PA37#v=onepage&q&f=true
King, S., & Queen, C. (Eds.). (1996). Engaged Buddhism: Buddhist Liberation Movements in Asia. New York: State University of New York.
Tài liệu Thích Đôn Hậu thuyết trình giựt dây Phật tử triệt hạ hai chính thể VNCH I & II
Thích Hộ Giác và PGVNTN trong Việc Loại Trừ Chính Phủ VNCH Đến Giọt Máu và Hơi Thở Cuối Cùng
Sự thật về ông Thích Đôn Hậu [Bổ túc links tài liệu [i] và [ii]]
Picture shared at Vietnam Saigon's
Nhìn hình ảnh này càng hiểu ra lòng dân
lúc đó cũng bất bình với bọn phản chiến việt gian qua cái gọi là "phong
trào đòi hòa bình (âm mưu hòa bình chủ bại), đòi Mỹ rút quân về
nước, quyết khai tử VNCH đến giọt máu và hơi thở cuối cùng", trong số đó
phải kể tên các ông họ Thích của PG Ấn Quang như Quảng Độ, Hộ Giác, Trí
Quang, Nhất Hạnh, Đôn Hậu,... và đại việt gian phản chiến Võ Văn Ái.
Đây chính là sự thật hiển nhiên không gì
có thể thay đổi được. Cho dù ngày hôm nay đồng bào có "cúng dường hàng
triệu đô la" cho nhóm mạo danh họ Thích "ăn cơm quốc gia làm lợi cho ma
CS này" thì cũng không thay đổi được thực tế PHẢN QUỐC của chúng.
Xin đừng ai ngụy biện rằng chuyện xưa gác lại cùng nhau đoàn kết chống cộng. Bởi đó chính là sự ngụy biện HÈN HẠ đó. Đoàn kết sao được khi mà đến giờ phút này, những ông mạo danh họ Thích vẫn tiếp tục ngậm máu phun VNCH bằng những ngôn từ "ngoại bang" (Quảng Độ, 2011), "quân phiệt" (Võ Văn Ái, 2012)...
Xin đừng ai ngụy biện rằng chuyện xưa gác lại cùng nhau đoàn kết chống cộng. Bởi đó chính là sự ngụy biện HÈN HẠ đó. Đoàn kết sao được khi mà đến giờ phút này, những ông mạo danh họ Thích vẫn tiếp tục ngậm máu phun VNCH bằng những ngôn từ "ngoại bang" (Quảng Độ, 2011), "quân phiệt" (Võ Văn Ái, 2012)...
Chúng tôi, con cháu của VNCH sinh ra sau
cuộc chiến Quốc Cộng 1975. Cha anh chúng tôi đã đổ máu xương cho miền
Nam tự do, đã tuẫn tiết trong ngày 30.4.1975, bị những ông
mạo danh họ Thích sỉ nhục là "ngoại bang", là "quân phiệt" thì chúng
tôi sẽ không bao giờ cam tâm đứng nhìn. Với bọn người hạ cấp ngày đêm hạ
nhục, hùa nhau mạt sát Thiếu Tá CSQG TTH Liên Thành, một người lính
VNCH thật sự với tinh thần quốc gia, thành thật, và rất tự trọng mà
chúng tôi từng được biết, thì sẽ có một ngày chúng sẽ đền tội trước vong
linh của hơn 6000 oan hồn Huế Mậu Thân 1968 do đã cản đường cản lối
công việc truy tố CS của Th/Tá Liên Thành. Ngày đó không còn xa nhất là
đối với những kẻ gần đất xa trời.
Chứng Cớ PHẢN QUỐC của những tên mạo danh họ Thích
1- ** Thích Nhất Hạnh, Cao Ngọc Phượng, Thích Trí Quang, và THÍCH QUẢNG ĐỘ
đăng 3 bài báo phản chiến trên tờ New York Times trong cùng ngày 9
tháng 4 năm 1967. Chúng cắt máu Việt Nam Cộng Hòa bằng những ngôn từ
phản phúc rằng Việt Nam Cộng Hòa không hợp pháp và không nên tồn tại.
(Bấm vào hình bên dưới để mở lớn, xem mục số 4.)
Ở mục số 2: "nhân dân miền Nam muốn chiến tranh chấm dứt. Hầu hết không phải Việt cộng nhưng nếu không chấm dứt thì họ sẽ tham gia vào Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam."
Ở mục số 4: "chính quyền Nam Việt Nam hiện nay không phải là chính quyền của chúng tôi và không đại diện cho nhân dân chúng tôi. Nó được Mỹ áp đặt lên chúng tôi và được điều khiển bởi những tên lính đánh thuê cho Pháp chống lại nhân dân Việt Nam trước 1954. Nếu chúng tôi được bầu cử tự do, chính quyền này không tồn tại một ngày. Chúng tôi muốn tự chúng tôi giải quyết vấn đề Việt Nam của chúng tôi bằng cách điều đình với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Bắc Việt cũng như sự rút quân của Mỹ. "
** Ảnh phóng to một trong ba bài báo ghi rõ hai lãnh đạo cao cấp nhất của Ấn Quang là Cộng sản Trí Quang và Quảng Độ đồng ký tên trong bản tin rằng chúng không chấp nhận chính phủ Việt Nam Cộng Hòa .
Phần sau lá thư ký tên Thích Trí
Quang, Thích Quảng Độ viết: chúng tôi không chấp nhận cuộc chiến tranh
đang xảy ra mà trong đó có sự hiện diện của các quân đội nước ngoài
và quân đội bị ảnh hưởng bởi ngoại bang.
2-
Cuốn hồi ký của Lê văn Hảo, viết bằng tiếng Pháp, trích một số tài liệu liên quan đến Đôn Hậu trong Tập san Huế Passé et Présent số 37 trang 235-237 do Etudes Vietnamiennes của Nguyễn khắc Viện xuất bản năm 1973.
Thích Đôn Hậu giải bày theo giọng điệu CS dưới đây:
Tại sao tôi gia nhập
Liên Minh Lực Lượng Dân
Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam
(LMLLDTDCHBVN)
Thích Đôn Hậu, Phó Chủ Tịch
LMLLDTDCHBVN (20/05/1968) in « Huế : Passé et Présent : Etudes
vietnamiennes No 37, 1973, p.235-237 : « Pourquoi j’ai adhéré à
l’Alliance des Forces nationales démocratiques et de Paix du Viêt Nam).
[Dịch từ bản tiếng Pháp]
Kính gửi tất cả đồng bào miền Nam Việt Nam,
Đồng bào thân mến,
Nghe tin tôi gia nhập LMLLDTDCHBVN, tín
đồ phật giáo và những người ngoại giáo chắc là sẽ tự hỏi tại sao một
người già lão như tôi, tu hành đã bao nhiêu năm, mà thay vì hiến thân
trọn vẹn cho đạo giáo lại đi làm chính trị?
Theo tôi đó là một câu hỏi chí lý. Bởi
vì đi tu là từ bỏ chức quyền, danh vọng và của cải trần thế nầy để hiến
trọn đời sống cho việc thực hiện những lý tưởng đạo Phật.
Tuy nhiên, từ mười ba năm nay, những
chính thể lệ thuộc Mỹ từ Ngô Đình Diệm tới Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn Cao
Kỳ đã áp dụng một chính sách đán áp ngày càng khốc liệt và ác quái hơn
đối với các phật tử miền Nam Việt Nam vì các người nầy, thay vì thừa
nhận lũ độc tài, phản tôn giáo, phản tổ quốc nhân dân, đã chống lại bọn
họ.
Để bảo vệ tự do tin ngưỡng và tôn giáo
cổ truyền của dân tộc, phật giáo không ngừng tranh đấu, sẵn sàng hy
sinh mạng sống; nhưng mà những hình thức đấu tranh và hy sinh đó không
đánh động thiện chí và lương tâm những người chỉ biết dùng vũ lực và chỉ
nuôi những ý đồ đen tối.
Số phận của phật giáo và của dân tộc
thực ra không thể tách rời nhau. Trong khi đàn áp phật giáo, bè lũ ác
ôn làm tôi ngoại bang nầy đã ra mặt phản bội nhân dân và bán rẻ miền Nam
Việt Nam cho Mỹ. Điển hình là các Hội nghị thượng đỉnh Honolulu và
Manille đã cho phép quân Mỹ xâm chiếm tràn lan lãnh thổ quốc gia, can
thiệp trực tiếp vào việc nội bộ của nhân dân Việt Nam, chà đạp tự do và
độc lập quốc gia và kéo dài một cuộc chiến tranh bất tận và hết sức
tàn ác, phạm không biết bao nhiêu là tội ác man rợ đối với dân chúng.
Những đổ nát gây ra cho cả hai miền quốc gia chứng tỏ chưa bao giờ
nhân loại thấy người xâm lăng một nước nào lại khủng khiếp và man rợ
như người Mỹ.
Với chính sách diệt chủng, người Mỹ đã vi phạm nặng nề luật pháp quốc tế và xúc phạm trầm trọng lương tâm của nhân loại.
Đứng trước một tai nạn quốc gia như thế
thì cho dù một ông tu hành già cả như tôi không thể ẩn tu trong chùa.
Trong sách Phật có dạy: « Hãy dung hòa sự uyển chuyển của hành vi với
những nguyên tắc khắt khe ». Tôi nghiệm ra rằng với hai bàn tay không
và lòng nhân hậu giảng thuyết bất bạo động không thắng nổi lòng tham
lam và tính hiếu chiến của những người xâm lăng và những tên bội phản
tổ quốc đã đánh mất lương tâm.
Để cứu vãn đạo giáo và dân tộc, nhằm
chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hòa bình, đoàn kết nhân dân, dành lại chủ
quyền quốc gia, thực hiện một miền nam độc lập tự do, trung lập và
thịnh vượng tiến đến thống nhất quốc gia trong hòa bình, tôi cương
quyết gia nhập LMLLDTDCHBVN.
Ý thức tầm quan trọng của sự tham gia
của những người dân thiết tha yêu đạo và yêu nước vào sự tranh đấu chung
của nhân dân trong giờ phút quyết định này, tôi tha thiết kêu gọi đồng
bào trong và ngoài nước, đặc biệt là các phật tử và những dân cư
thành thị miền nam Việt Nam xiết chặt hàng ngũ trong LMLLDTDCHBVN,
tăng cường sức mạnh, đứng lên để chiến thắng tụi xâm lược Mỹ và bè lũ
tay sai, chiếm lại độc lập, tự do và hòa bình đích thực.
STATE.GOV - 16.3.1966
Dịch:
Bức điện tín từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gởi Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam
Washington, ngày 16.3.1966, 4:13 chiều
Bản Tuyên bố do Thích Hộ Giác đưa ra, theo báo cáo của Hãng Thông Tấn UPI, thề rằng cuộc đấu tranh của Phật giáo [phản loạn] sẽ kéo dài đến "giọt máu cuối cùng, hơi thở cuối cùng" (“to last drop of blood, to last breath”) để đạt cho được chương trình 4 điểm, trong đó, có một điểm là xóa bỏ chính phủ hiện tại [Việt Nam Cộng Hòa Đệ II] đã được chuyển đến các lãnh đạo cao nhất.
Chúng ta phải tìm cách nào để làm cho Phật giáo [phản loạn] hiểu rằng, sự can thiệp sâu xa của Mỹ nhằm bảo vệ quốc gia của họ khỏi rơi vào tay của Việt Cộng, thì không hứa hẹn gì với chính phủ hay quân đội của chính họ. Lúc này không phải là lúc đảo ngược tất cả mọi thứ mà những nổ lực thì đang bắt đầu cho thấy những kết quả khả quan. Hơn nữa, chính phủ Hoa Kỳ và chính phủ Kỳ đã và đang cam kết phát triển kinh tế và xã hội, điều mà quý vị Phật giáo [phản loạn] cũng đang khăng khăng đòi. Tuy nhiên, những phát triển này không thể đạt được chỉ qua 1 đêm và điều chắc chắn sẽ chẳng thể nào đạt được nếu Việt Cộng thắng cuộc chiến. Hơn nữa, những kết quả ấy chỉ bị đình trệ, chứ không đẩy nhanh, bởi phải bắt đầu mọi thứ lại từ đầu với một chính quyền mới. Nhóm Phật giáo [phản loạn] phải được cho biết rằng những khả năng của chúng ta trong việc tiếp tục giúp nhân dân Việt Nam tự vệ và phát triển quốc gia là thực sự tùy thuộc rất nhiều vào thiện ý của họ. Cũng như, việc họ nên đặt những dị biệt sang một bên và cùng nhau làm việc.
Với sự cân nhắc của bạn, bạn được quyền truyền đạt đến Thích Trí Quang và các cơ sở Phật giáo cũng như các lãnh đạo thế tục mà bạn thấy tiện lợi. Cân nhắc của Tổng Thống thế này, nếu họ từ chối theo hình thức vô trách nhiệm và theo đường lối phá hoại, không những họ sẽ đánh mất sự thiện cảm công khai và chính thức mà Hoa Kỳ dành cho họ từ trước đến nay, mà có thể họ còn tạo nên tình hình hỗn loạn và vô chính phủ. Điều này sẽ làm cho sự hổ trợ của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam không còn hiệu quả nữa. Tổng Thống hy vọng rằng họ sẽ nhận thức sâu sắc vấn đề này, không chỉ như những người Việt Nam yêu nước quan tâm đến tương lai của đất nước mà còn như những lãnh đạo tôn giáo biết quan tâm đến tương lai của tín đồ cũng là điều mà giáo lý dạy.
Rusk
[Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ]
http://history.state.gov/historicaldocuments/frus1964-68v04/d96
LIFE - 22.4.1966
Dịch: Khi những cuộc biểu tình hoành hành dữ dội, nhóm Phật giáo [phản loạn] công khai tuyên bố rằng chính họ đứng sau lưng tình trạng gây náo loạn này. Những lãnh đạo hàng đầu là Thích Trí Quang (hình dưới), người tạo ra việc lật đổ Tổng Thống Diệm. Thích Tâm Châu (phải) và Thích Thiện Minh (phía xa phải). Trang kia, Thích Hộ Giác đang nói với đám đông rằng những cuộc biểu tình tương lai sẽ được lên kế hoạch một cách chiến lược bởi Phật giáo [phản loạn].
http://books.google.com/books?id=IlYEAAAAMBAJ&lpg=PA36&dq=%22Thich%20Ho%20Giac%22&pg=PA37#v=onepage&q&f=true
Lược dịch: Thích Hộ Giác từng thành
lập Đảng chính trị Phật giáo [phản loạn] (a Buddhist political party)
mang tên "Vietnamese Buddhist Force" và giữ chức Phó chủ tịch đảng này.
King, S., & Queen, C. (Eds.). (1996). Engaged Buddhism: Buddhist Liberation Movements in Asia. New York: State University of New York.
Xem thêm:
Những điều nên biết - Thích Quảng Độ và những hoạt động đâm sau lưng hai chính thể Việt Nam Cộng Hòa
Tài liệu Thích Đôn Hậu thuyết trình giựt dây Phật tử triệt hạ hai chính thể VNCH I & II
Thích Hộ Giác và PGVNTN trong Việc Loại Trừ Chính Phủ VNCH Đến Giọt Máu và Hơi Thở Cuối Cùng
Sự thật về ông Thích Đôn Hậu [Bổ túc links tài liệu [i] và [ii]]
3- Trích Bạch Thư của Hòa Thượng Thích Tâm Châu, đoạn nói về tội ác của nhóm tranh đấu Ấn Quang (tức Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ngày nay) đã gây ra cho Phật giáo và Quốc gia
Hòa Thượng Thích Tâm Châu. (Trích từ trang 27-39)
Nhà xuất bản: Tổ Đình Từ Quang
2176 Ontario East
Montréal, Québec H2K 1V6, Canada
Nhà xuất bản: Tổ Đình Từ Quang
2176 Ontario East
Montréal, Québec H2K 1V6, Canada
6) Đại Nạn Của Phật Giáo và đất Nước.
Sang năm 1966, Đại Hội Giáo Hội lại
bắt buộc tôi phải làm Viện Trưởng thêm một nhiệm kỳ nữa. Giáo Hội e
ngại các tướng lãnh tranh giành ảnh hưởng nhau, không thể có cơ sở vững
vàng để xây dựng đất nước được, Giáo Hội yêu cầu Hội Đồng Lập Hiến.
Sự yêu cầu này được phát động khắp các cấp Giáo Hội. Nhưng chỉ trong
vài tháng việc yêu cầu bầu cử Quốc Hội Lập Hiến đã được Chính Quyền
các Tướng lãnh chấp nhận vào ngày 14-4-1966.
Sau khi phong trào bầu cử Quốc Hội
Lập Hiến đã được thỏa mãn, nhân danh Viện Trưởng, tôi đã gửi thư thông
cáo tới các nơi biết: ngưng sự tranh đấu, và chỉ đặt các chương trình
xây dựng đạo pháp mà thôi.
Ngày 2 tháng 5 năm 1966 tôi đáp máy
bay sang Colombo, thủ đô nước Tích Lan, cùng đại biểu Tăng Già các
nước soạn thảo Hiến Chương và thành lập Giáo Hội Tăng Già Thế Giới bắt
đầu từ ngày 6-5-1966. và tôi đảm trách chức vụ Phó Chủ Tịch.
Từ Tích Lan trở về, tôi ghé thăm Malaysia và Singapore để cảm ơn sự hộ trợ tinh thần trong cuộc tranh đấu 1963 vừa qua.
Vào 11 giờ sáng ngày 29-5-1966, tôi
về tới Saigon, được tin đang có biểu tình trong thành phố Saigon và
một số nơi khác tại miền Trung. Tôi không hiểu, khi tôi đi vắng, ở nhà
có Thượng Tọa Trí Quang, Thượng Tọa Thiện Minh, do đâu lại phát động
lại phong trào tranh đấu?
Tôi về tới VN Quốc Tự, bước chân vào cửa văn phòng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo của tôi thì có một biểu ngữ nền vàng chữ đỏ ghi: “Muốn quần chúng tuân theo kỷ luật thì phải theo quần chúng”. Tôi vào tới bàn giấy của tôi thì có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư: “Yêu cầu các Thượng tọa trong Viện Hóa Đạo, không được theo Thượng tọa Tâm Châu”.
Tôi định lên chánh điện VN Quốc Tự
lễ Phật, tại đây có mấy các vị Tăng thanh niên không cho tôi vào chánh
điện VN Quốc Tự và hăm dọa, ai muốn vào chùa hãy bước qua xác chết của
họ.
Tôi vô cùng chán nản, không biết cách nào vãn hồi trật tự được. Tôi trở về chùa Từ Quang. Về chùa Từ Quang cũng có một đĩa máu, một con dao và huyết thư “Cấm tôi không được hoạt động nữa”. Và, người trong chùa cho biết là họ hăm dọa sẽ đốt xe, ám sát. Và, chính các vị Tăng thanh niên đang tụ tập tại Niệm Phật Đường Quảng Đức (Bàn Cờ) định sang chùa Từ Quang giết tôi. May có Sư Cô Vân biết được, cấp báo cho tôi biết. Tôi trốn thoát. (4)
Từ đó, tôi phải đi nghỉ, nay tại nhà này, mai tại nhà khác, nay tại Viện Nhu Đạo Quang Trung, mai tại Nha Tuyên Úy Phật Giáo.
Từ đó, VN Quốc Tự bị Tăng Ni và quần chúng theo CS nắm giữ, thao túng, liên tục ngày này qua ngày khác, ra đường Trần Quốc Toản, ngã 6 Saigon – Chợ Lớn biểu tình, đả đảo và đốt hình nộm Tổng Thống Mỹ, Tướng Thiệu, Tướng Kỳ. Tôi không dám tới và làm việc tại VN Quốc Tự nữa.
Tại Huế, Đà Nẵng và vài nơi khác tại
miền Trung cũng vậy, không sao vãn hồi được trật tự. Lại thêm, sự
xích mích giữa Tướng Nguyễn Chánh Thi và các Tướng tại Saigon. Nhóm
Lập Trường ở Huế ra đời, đòi hỏi bầu Quốc Hội, đòi hỏi ngưng chiến
tranh.
Kết cuộc, các Tướng Saigon mang quân ra vãn hồi trật tự miền Trung. Thượng
Tọa Trí Quang cùng nhóm tranh đấu tại Huế, kêu gọi Phật tử đem bàn
thờ Phật ra đường, để ngăn cản bước tiến của Quân Đội Chính Phủ, cho
các cán bộ CS nằm vùng, trà trộn tẩu thoát.
Phong trào mang bàn thờ Phật ra đường lan tràn khắp nơi và vào cả đến Saigon. Tại Saigon họ đem ảnh Phật ra để trên đống rác.
Nhìn cảnh tượng ấy tôi cảm thấy đau
lòng, liền ra một thông bạch yêu cầu Phật tử không nên đem Phật ra
đường. Thượng Tọa Thích Thiện Hoa Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo đột
nhiên ra một thông báo tán thành việc đem Phật ra đường. (5)
Tại Đà Nẵng cũng như một số nơi
khác, ngoài việc đem Phật ra đường, còn ghìm súng, nấp sau tượng Phật
bắn ra, khi quân đội tiến vào kiểm soát chùa.
Đem Phật ra đường rồi, Thượng Tọa
Trí Quang vào Tòa Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên tuyệt thực. Sau, chính phủ
đưa Thượng Tọa Trí Quang vào Saigon, ở nhà bác sĩ Nguyễn Duy Tài.
Thượng Tọa vẫn duy trì việc tuyệt thực (có uống nước thuốc dưỡng sức),
cho đến khi chính phủ quân nhân y lời hứa hồi tháng 4-1966, bầu cử
Quốc Hội Lập Hiến vào ngày 3-9-1966.
Sau khi thanh toán sự hỗn loạn tại
Huế và một số tỉnh khác tại miền Trung, thì tại Đô thành Saigon, chính
phủ cũng thanh toán xong nhóm náo loạn tại VN Quốc Tự. Tòa Đô Chính
Saigon chính thức viết thư xin lỗi Giáo Hội: “Vì nạn bất đắc dĩ phải
thanh toán nhóm náo loạn tại VN Quốc Tự, chứ thực tâm, chính phủ không
dám xâm phạm vào tôn giáo”.
Tôi trở về làm việc tại VN Quốc Tự,
nhưng một số các vị tranh đấu nhất định không về. Các vị cho rằng,
chính phủ xúc phạm đến tôn giáo và cho tôi là thân Chính Quyền. Tại
miền Trung, Thượng Tọa Trí Quang cho tuyên truyền rằng: “Mỹ mua đứt Tâm
Châu với 3 triệu Mỹ kim và cho tôi là cậu của Tướng Nguyễn Cao Kỳ,
đem quân đội ra tàn sát Phật tử miền Trung v.v…”.
Đó là chỗ nẩy sinh ra sự mâu thuẫn
giữa tôi và các vị tranh đấu. Từ chỗ mâu thuẫn ấy, tại Saigon, Thượng
Tọa Trí Quang và nhóm tranh đấu vu khống cho tôi là người Mỹ cho tôi 1
triệu Mỹ kim và trả lương cho tôi mỗi tháng là 20 ngàn Mỹ kim. Thực
ra, tôi chưa được một dollar của Mỹ, chứ nói chi đến vạn, đến triệu.
(6)
Tôi vẫn nhẫn nại làm việc, tuân theo
lời dạy của Hòa Thượng Tăng Thống Thích Tịnh Khiết triệu tập Đại Hội
Giáo Hội tại VN Quốc Tự từ chiều 21-10-1966.
Buổi chiều ngày 22-10-1966, Đại Hội mới duyệt xét chương trình nghị sự xong.
Bất ngờ, 3 giờ sáng ngày 23-10-1966,
tại chùa Ấn Quang một số các Thượng Tọa đã lén lút thành lập Hội Đồng
Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất và đề cử Thượng Tọa
Thích Thiện Hoa làm Viện Trưởng, coi như lật đổ tôi. Từ đó có ra Viện
Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất tại Ấn Quang.
Vậy, đâu là chỗ chia đôi và lũng đoạn Giáo Hội Thống Nhất?
Sau đó, Viện Hóa Đạo Ấn Quang chuyển hướng theo đường hướng “Hòa Bình Khuynh Tả”.
Viện Hóa Đạo Ấn Quang cử các vị ra
nước ngoài liên lạc với các nhóm phản chiến, yêu cầu Mỹ rút quân, phản
đối chính sách chống Cộng của VNCH, đòi hòa bình. Viện Hóa Đạo Ấn
Quang cử Thượng Tọa Nhất Hạnh làm Trưởng Phái Đoàn Hòa Bình bên cạnh
Hòa Đàm Paris.
Ấn Quang là một Phật Học Đường danh
tiếng, cung ứng cho nhu cầu phát triển Phật Giáo miền Nam rất nhiềụ
Nhưng từ nửa năm 1966 trở đi, Ấn Quang đã bị cưỡng ép làm nơi tranh đấu
của các vị ưa tranh đấu. Sang năm 1967, tôi triệu tập 8 Giáo Phái,
Hội Đoàn tại VN Quốc Tự, tuyên bố rút lui chức Viện Trưởng Viện Hóa
Đạo Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất. Đại Hội đề cử Thượng Tọa Thích
Thiện Tường (người Nam), lên thay thế tôi làm Viện Trưởng. Và, Đại Hội
này nhận thấy Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất đã bị chủ
trương “nhất thống”, tiêu diệt các Giáo Phái, Hội Đoàn, nên Đại Hội đã
tu chính bản Hiến Chương ấy, cho phù hợp với các Giáo Phái, Hội Đoàn.
Bản Hiến Chương tu chính này được thông báo cho chính phủ của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu biết.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký sắc luật 23/67 ngày 18/7/1967, công nhận Hiến Chương ấy.
Sau khi rút lui khỏi Viện Hóa Đạo,
tôi trở ra chùa Từ Quang Vũng Tàu của tôi, vui cùng cảnh vật thiên
nhiên, cho vơi bớt những sự ưu tư, vất vả.
Tại Saigon, Giáo Hội Thống Nhất Ấn
Quang lại phát động phong trào tranh đấu, đòi hỏi không được tu chính
Hiến Chương. (Thực vô lý, Ấn Quang chỉ có 3 Giáo Phái, Hội Đòan, mặc dù
Tăng Ni Phật tử đông. VN Quốc Tự có 8 Giáo Phái, Hội Đoàn – dù rằng
người ít – vẫn có quyền tu chính Hiến Chương, chứ không phải hủy bỏ
Hiến chương).
Đùng một cái, một hôm vào khoảng 7
giờ tối, một số Tăng tại chùa Ấn Quang, được sự hộ trợ của các dân biểu
thân Ấn Quang có súng, như Kiều Mộng Thu v.v… đột nhập vào VN Quốc Tự
bắt thượng Tọa Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Thích Thiện Tường, cùng với
rất đông chư Tăng, đem về nhốt tại chùa Ấn Quang.
Ngày hôm sau, Nha Tuyên Úy Phật Giáo
can thiệp, mời các vị Ấn Quang ra khỏi VN Quốc Tự. Sau đó, Giáo Hội
Thống Nhất tại VN Quốc Tự lại phải đề cử Thượng Tọa Thích Minh Thành
(người Nam) lên làm Viện Trưởng.
Vẫn chưa yên.
Lại một hôm khác, vào chập tối, phe
Ấn Quang lại đem người, đem khí giới, tái chiếm VN Quốc Tự một lần nữa
Lần này họ bắt hết Tăng chúng, lấy hết đồ đạc, nhiều máy may của VN
Quốc Tự và đốt cháy một dãy nhà phía tay trái Quốc Tự.
Nha Tuyên Úy Phật Giáo lại phải can thiệp để vãn hồi trật tự.
Sau biến cố này, Giáo Hội Thống Nhất
tại VN Quốc Tự phải đề cử Thượng Tọa Thích Tâm Giác, Giám Đốc Nha
Tuyên Úy Phật Giáo, kiêm nhiệm Viện Trưởng Viện Hóa Đạ, mới yên.
Hai lần Ấn Quang đánh phá VN Quốc Tự như trên, hỏi ai làm nhơ nhớp cho lịch sử Phật Giáo VN ?
Sự việc rõ ràng như thanh thiên bạch
nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hộ trợ ngầm của CS nằm
vùng, lải nhải vu khống cho VN Quốc Tự chia rẽ Giáo Hội, Thích Tâm
Châu phá hoại và lũng đoạn Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất. Thực như
câu phương ngôn của VN thường nói: “Vừa đánh trống vừa ăn cướp, vừa ăn
cướp vừa la làng”. Cậy đông, lấy thịt đè người, mặc sức vu khống,
thao túng không coi nhân quả là chi cả!
Cho đến nỗi những vị Tăng không biết
chút gì về việc tranh đấu, việc xây dựng Giáo Hội, cũng như các vị
Tăng, Ni Phật – từ ở xa, hay sau này, cũng a dua, hùa theo sự tuyên
truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và CS nằm vùng trong suốt
hơn 30 năm naỵ Thực tội nghiệp!
Nói thẳng thắn, cuộc chiến tranh
Quốc Cộng tại VN, không có một tôn giáo, một đoàn thể nào, không bị CS
nằm vùng gây chia rẽ, phá hoạị Thiên Chúa Giáo có những cán bộ gộc nằm
vùng như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng v.v… Phật Giáo cũng vậy, CS nằm
vùng từ thượng tầng, tới hạ tầng, càng dễ dàng hơn.
Thực sự, cuộc tranh đấu từ tháng 6-1966, cho đến nay chia đôi Giáo Hội, đều do bàn tay CS đạo diễn, làm hại cho Phật Giáo và quốc gia VN không nhỏ. Vì vậy, Phật Giáo không phải là không có trách nhiệm, liên đới đến sự để mất VNCH cho CS.
Vấn đề này, chính Hòa Thượng Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi nhắc lại: “CS từng tuyên bố: “Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với Cách Mạng”.
* Vấn đề hòa hợp hòa giải và các tạp sự sau đó.
Đầu thập kỷ 1970. hòa đàm Paris đang
tiến đến hồi mặc cả có lợi nhiều cho CS, thì tại VN phe tranh đấu Ấn
Quang, do Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh đạo, đã cho thành lập phong
trào Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc, do ông Vũ Văn Mẫu được coi là Thủ
Lãnh.
Phong trào này không được sự tán
thành của hai Thượng Tọa Thiện-Minh và Huyền-Quang. Vì hai Thượng Tọa
này không tán thành phong trào Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc, nên Thượng Tọa
Trí-Quang và phe nhóm của Thượng-Tọa đã tung ra một chiến dịch bôi
bẩn Thượng-Tọa Thiện-Minh và Thượng-Tọa Huyền-Quang một cách tàn nhẫn.
Cũng vì chiến dịch này, trong suốt một năm, Giáo Hội Thống Nhất Ấn
Quang không thể triệu tập được Đại Hội để bầu cử chức vụ Viện Trưởng
Viện Hóa Đạo vì Thượng Tọa Thích Thiện Hoa đã viên tịch, khiến cho
Thượng Tọa Thích Trí Thủ là một vị Tổng Vụ Trưởng phải đứng lên xử lý
thường vụ.
Tình hình biến chuyển hoàn toàn bất
lợi cho VNCH. Ngày 30-4-1975, là ngày cáo chung của chế độ VNCH. Những
bộ mặt thân CS đã lộ rõ nguyên hình, không ai mà không rõ.
- Khi quân CS từ rừng về Saigon, đã có lần 500 Tăng, Ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra đón chào.
- Ngày 19-5-1975, phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn Quang.
- Hiệp Thương Chính Trị thống nhất
hai miền Nam-Bắc của CS, một Thượng Tọa của phe Ấn Quang đã làm một bài
tham luận, nịnh CS, kể công của Ấn Quang và đả kích Nha Tuyên Úy Phật
Giáo cùng Giáo Hội Thích Tâm Châu.
- Vào khoảng năm 1980, 1981, chính
Thượng Tọa Thích Trí Thủ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Ấn Quang cùng các vị
cao cấp nhất phe tranh đấu Ấn Quang đã tích cực vận động thành lập và
tham gia vào Giáo Hội Phật Giáo VN tại chùa Quán Sứ (Hà Nội), mà người
ta thường gọi là “Giáo Hội Quốc Doanh”, hay “Giáo Hội Nhà Nước”.
Chỉ có các Thượng Tọa: Thiện Minh, Huyền Quang, Đức Nhuận, Quảng Độ
và một số nhỏ các vị khác không tán thành, nên bị bắt hay bị giết.
- Vào khoảng năm 1986, 1987, Ông
Gorbachev, Tổng Bí Thư Đảng CS Liên Xô chủ trương cởi mở, thì tại VN
ông Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí Thư Đảng CSVN cũng theo chủ trương ấỵ Sau
đó, Chủ Nghĩa CS bị tan rã tại Nga, tại Đông Âu, thì tại VN, hình thức
chuyển hướng là sự cần thiết để sống còn của ho.. Họ đã cho các chùa
được sinh hoạt tín ngưỡng một phần nào, trả một số cơ sở cho các chùa,
cho một số thanh niên Tăng, Ni được học hỏi Phật Pháp. Và, có thể
bước đầu thí nghiệm của họ, họ cho một số người nào đó, đòi hỏi quyền
tự do dân chủ, để tiện dịp nhận diện những người quyết tâm tranh đấu,
để có thể triệt hạ sau này.
Hòa Thượng Thích Đôn Hậu đã khơi mở
ra phong trào Phật Giáo Thống Nhất tại hải ngoại, và Hòa Thượng Thích
Huyền Quang tiếp nối sự nghiệp ấy.
Tại Hoa Kỳ cũng tổ chức thống nhất rầm rộ. Kết cuộc có ra hai, ba Giáo Hội Thống Nhất.
Tại Âu Châu, có nhiều Giáo Phái hoạt
động riêng biệt. Nhưng có một số chùa, có các vị Tăng trung niên và
thanh niên, kết hợp thành Giáo Hội Thống Nhất Âu Châu.
Tại Úc, dân số VN ty nạn vào khoảng
150 ngàn người, Giáo Hội Thống Nhất Úc và Tân Tây Lan đã thành hình,
với số Tăng, Ni ít ỏi, số chùa độ trên mươi ngôi, và trong những ngày
đại lễ, số chùa độ trên mươi ngôi, và trong những ngày đại lễ, số Phật
tử tới các chùa, tính chung lại vào khoảng 7, 8 ngàn người. Nội bộ
Giáo Hội thì không ổn định và có vẻ phức tạp.
Hòa Thượng Thích Huyền Quang tại VN,
đang là người trỗi lên, đòi lại danh xưng và sự phục hoạt của Giáo
Hội Phật Giáo VN Thống Nhất. Hòa Thượng là người đầy đảm lược, đầy
kinh nghiệm với chủ nghĩa CS. Tôi rất kính mến Hòa Thượng. Tôi đã viết
thư khích lệ Hòa Thượng. Tôi luôn luôn cầu nguyện cho việc làm của
Hòa Thượng được thành công viên mãn.
Cuộc tranh đấu hiện nay tại VN do
Hòa Thượng Huyền Quang lãnh đạo thực vô cùng khó khăn. Khó khăn bởi bao
mưu cơ, sảo thuật của Thích trí Quang cũ, nằm trong Giáo Hội Nhà
Nước, ngăn trở. Khó khăn bởi Hiến Chương CS bao vâỵ Khó khăn ngay
trong nội bộ Giáo Hội Thống Nhất Ấn ”Tập quyền, kỳ thị” thiếu thiện
cảm với các Giáo Phái Phật Giáo khác. Và, có thể có khó khăn với các
tôn giáo khác, qua những nhận xét sâu xa. (7)
Tuy nhiên, CS là kẻ thù chung của
nhân loại. Nhân loại xóa bỏ những mặc cảm riêng tư, và tích cực phục vụ
chung cho chính nghĩa. Chính nghĩa quyết thắng. Chủ nghĩa CS không
sao tránh khỏi luật đào thải, và chắc chắn phải nhường chỗ cho thể chế
tự do, dân chủ của toàn dân VN.
* Kết luận
Giáo Pháp của đức Phật Thích Ca Mưu
Ni thấm nhuần vào lòng dân VN đã gần hai ngàn năm. Phật Giáo đã hòa
đồng cùng vận mệnh thịnh suy của dân tộc. Phật Giáo đã sản sinh những
nhân vật đức hài hòa trong sự nghiệp cứu nước và dựng nước. Nhưng, đôi
khi, Phật Giáo cũng bị những nhân vật cậy tài, ỷ thế, kỳ thị, thiếu
sáng suốt, thiếu hỷ xả, gây tan nát cho đạo giáo và Quốc Gia không ít.
Phật Giáo tôn trọng tự do nhân chủ tuyệt đối, không chủ trương “tập quyền” cho một cá nhân hay một nhóm người. Vì, hễ có tập quyền là có độc tài, có bè phái, có những thủ đoạn để củng cố quyền lực.
Gần một thế kỷ nay, nhân loại bị đau khổ đến cùng cực bởi nạn “tập quyền” của CS. Ba mươi năm nay Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất chủ trương “tập quyền”,
chưa thấy đem lại tia hy vọng hòa hợp và an lạc cho đại chúng. Phật
Giáo VN tại Hoa Kỳ triền miên trong sự chia rẽ, đã có hai, ba tổ chức
thống nhất. Phật Giáo VN tại Úc, “tập quyền” thống nhất trong tay một
nhân vật tham độc, thiếu tài đức, gây bè phái, kỳ thị Trung, Bắc, hãm
hại huynh đệ đồng đạo, mặc cho gần trăm ngàn Phật tử VN tỵ nạn tại Úc
không nơi nương tựa, mặc cho danh dự Phật Giáo VN bị tổn thương nặng
nề!
Ôi, Phật Giáo VN ! Ôi, Phật Giáo VN!
Ai gây chi lắm niềm đau khổ,
Vũ trụ nài van đến nghẹn lời!
(Lửa thiêng đạo mầu)
Kính bạch Quý Ngài,
Kính thưa Quý vị,
Bạch thư này viết ra trong hoàn cảnh
bất đắc dĩ. Bạch thư này được viết ra bằng những giòng lệ nóng thương
đời, thương đạọ Bạch thư này ra đời, có người ưa có người không ưa,
vì sự thật mất lòng. Nhưng, giả dối phải nhường chỗ cho sự thật, để
cho Quốc Gia, cho Đạo Pháp được trường tồn, cho nhân dân VN được thức
tỉnh, và cho nhân loại được hưởng niềm an lạc của chính pháp.
Cầu nguyện Tam Bảo từ bi gia hộ,
chuyển hóa đất nước VN, đạo giáo VN, nhân dân VN sớm thoát khỏi ách CS,
thành một nước tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc và thịnh vượng.
Chuyển hóa tâm niệm của các cấp Phật Giáo trong và ngoài nước, biết rõ
mình, như lời Phật dạy, tiến tu và đạt tới đích giác ngộ, giải thoát.
Cầu mong Quý Ngài và Quý vị luôn luôn được niềm an vui như ý, trong
ánh đạo từ bi và trí tuệ.
Thành thực cảm ơn qúy ngài và qúy vị.
Trân Trọng,
Ký tên
Hòa Thượng Thích Tâm Châu
Ghi-chú:
(4) Việc định ám sát tôi, sau này có
Thầy Thiện-Lực đến sám-hối với tôi và có một vài Thầy khác hiện nay
cũng có mặt ở ngoại quốc.
(5) Cảnh tượng đem Phật xuống đường,
không những tôi, nhiều người đau lòng, thế giới Phật-Giáo đau lòng,
mà cả Đại-Đức Thích-Quảng-Thành, cũng trong Iá thư viết cho Thượng-Tọa
Trí-Quang, ngày 31-12-1973, Đại-Đức nói: “Năm 1966, con
(Thích-Quảng-Thành) nghĩ Thượng-Tọa (Thích-Trí-Quang) đã làm một việc
sai lầm, khi phát-động phong-trào đem Phật xuống đường, dùng một
biểu-tượng linh-thiêng, để giải-quyết những tranh-chấp trần-thế.” Gần
cuối lá thư, Đại-Đức Thích-Quảng-Thành với tính-tình trung-trực đã viết:
“Đến nỗi hiện giờ anh em chúng con so sánh Thượng Tọa
(Thích-Trí-Quang) với nhân vật “NHẠC-BẤT-QUẦN” , trong tiểu thuyết nổi
danh của Kim-Dung. Nhạc-Bất-Quần là chưởng môn của một võ-phái nổi
tiếng và được giới giang-hồ xưng tụng là “quân-tử-kiếm”, vì lối đánh và
đường kiếm của ông rất quân-tử. Tuy nhiên mọi người đều lầm. Sau một
thời gian mấy mươi năm, ông đã lộ chân tướng của ông là một
“ngụy-quân-tử”, với những mưu mô và thủ-đoạn cực ác và cực nham-hiểm.”
(6) Việc vu khống cho tôi ăn đô-la
của Mỹ, chư Tăng, Ni, Phật-Tử miền Trung cho tôi biết và vừa đây có một
Phật-Tử Huế, đang tại Úc cũng xác-nhận với tôi là có sự tuyên truyền
ấy. Tại Sàigon, chính Đại-Đức Hộ-Giác (bây giờ đã là Hòa-Thượng) đã
cho tôi biết là Thượng-Tọa Trí-Quang nói trước Hội-Đồng Viện-Hóa-Đạo.
Thượng-Tọa nói là Thượng-Tọa được nghe vậy!
(7) Trong đơn xin cứu xét của
Hòa-Thượng Huyền-Quang gởi lên Tổng-Bí-Thư Đảng Cộng-Sản và Nhà Nước
Việt-Nam, ngày 24-6-1992, Hòa-Thượng có viết: “– Thời Pháp đến Việt-Nam lần thứ hai đã lập ra Giáp-Hội Thiền-Lữ. – Ngô-Đình-Diệm đã lập ra Giáo-Hội Cổ-Sơn-Môn. Thời Diệm không Diệm đã lập ra Giáo-Hội tại Việt-Nam Quốc-Tự
(Hòa-Thượng ám-chỉ thời-kỳ Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu đã ra sắc-luật
công nhận bản tu-chính Hiến-Chương năm 1967 của Việt-Nam Quốc-Tự.
Nhưng đó là sự sai-lầm, chuyển bạn thành thù). Hoà-Thượng còn so sánh với Thiên-Chúa-Giáo: “Nhà nước đã không làm việc cải-tạo với Thiên-Chúa-Giáo, mà còn lập lại ngoại-giao với Thiên-Chúa-Giáo...”
Nguyên gốc:
No comments:
Post a Comment