Victor Sybestyen Phan Trinh dịch
Gạch đá chọi súng
Một
người tham gia cách mạng cho biết: “Khắp nơi, chỗ nào cũng náo loạn.
Nhưng chúng tôi quyết tâm trụ lại trên đường phố để phản kháng, ít nhất
là trong đêm đó, rồi xem chuyện gì sẽ xảy ra.”
Không
có bộ đội chính quy nào dự phần vào cuộc đàn áp. Họ ở lại trại. Vài
người được phái đến nhưng hầu hết đều là tân binh, họ cũng hoang mang,
không biết phải nã súng vào ai.
Sai lầm thứ hai: Cố bám
Bên trong trụ sở Đảng Cộng sản tại Quảng trường Palace, Ceausescu phạm sai lầm lớn thứ hai.
Vốn
là người rất lo lắng cho an ninh bản thân, ông đã mướn nguyên một đội
cận vệ với 80 mật vụ được đào tạo kỹ thuật cao, được đãi ngộ và trả
lương hậu hĩnh để trung thành tuyệt đối. Không những thế, dưới đất trụ
sở Đảng là một hệ thống đường hầm bí mật nối kết với những dinh thự khác
của ông tại Bucharest.
Với
điều kiện như vậy, Ceausescu có thể dễ dàng thoát khỏi thành phố, đến
nơi khác để tập hợp những kẻ trung thành và xoay chuyển tình thế. Nhưng,
ông đã không dùng biện pháp này. Cũng không ai hiểu vì sao.
Suốt
buổi chiều và đêm hôm đó, Ceausescu co cụm trong trụ sở cùng các cận vệ
và quan chức thân cận. Một lần, ông nói với họ rằng: “Tôi sẽ ở lại
chiến đấu… Tôi sẽ không bỏ chạy dưới áp lực, và vợ tôi cũng đồng quan
điểm.”
Chẳng
ai buồn thuyết phục ông làm khác đi. Thậm chí một số người đã đổi chiều
với toan tính riêng để tự cứu. Những người khác thì tiếp tục im lặng vì
sợ hãi, như xưa nay vẫn vậy. [8]
Đêm không ngủ
Đêm
đó, quần chúng trụ lại trên đường phố. Thỉnh thoảng cũng có những cuộc
đụng độ đây đó khiến khoảng 35 người chết, nhưng mật vụ Securitate và
công an chống bạo động đã biến mất trước khi mặt trời lên.
Một
đám rất đông người, nhưng rất ôn hòa, đã chiếm đóng Quảng trường
Palace. Alex Serban nhớ lại: “Chúng tôi nghĩ có gì đó sẽ xảy ra. Nhưng
chẳng biết đó sẽ là gì.”
Đài
Truyền hình Rumani lại tiếp tục truyền hình trực tiếp các cuộc biểu
tình. Không ai ra lệnh cho họ ngưng ghi hình, nhưng có thể thấy là để
các nhà quay phim tiếp tục giữ máy ghi hình, họ phải có lòng dũng
cảm.[9]
Sai lầm thứ ba: Đổ tội
Lúc
9 giờ sáng, thứ Sáu 22 tháng 12, bên trong trụ sở Đảng, nhà độc tài
Ceausescu đã đưa ra một quyết định khiến quân đội xoay chiều, chống lại
ông, làm ông tiêu tan mọi hy vọng.
Ceausescu
cho rằng phải có kẻ chịu trách nhiệm về những bạo loạn trong thành phố,
nên ông chĩa mũi dùi vào Bộ trưởng Quốc phòng, Tướng Vasile Milea. Ông
nói Milea mắc tội ‘phản quốc’ vì đã không ra lệnh cho binh lính bắn vào
người biểu tình, và quyết định sa thải Milea.
Những
gì xảy ra cho Milea ngay sau đó đến nay vẫn chưa có gì chắc chắn. Theo ý
kiến của gia đình Milea, của bạn bè và một số thuộc cấp thì ngay sau 10
giờ sáng, theo lệnh của Ceausescu, một nhóm mật vụ đã áp giải Milea lên
tầng trên, vào phòng làm việc của ông, và sau đó bắn ông chết.
Một
diễn giải khác, được các nhóm sĩ quan khác đưa ra, cho rằng Milea được
đưa vào phòng làm việc của mình, và ông đã tự sát ở đó.
Thông báo chính thức phát đi lúc 11 giờ thì nói: “Tướng Milea, tên phản quốc, đã tự sát”.
Dù
cách nào đi nữa thì tin này đã có một ảnh hưởng vô cùng sâu sắc. Ngay
khi tin được loan ra, một loạt những tiếng la ó phản đối đã vang lên dữ
dội quanh Quảng trường Palace.
Ai
cũng rõ, tướng bụng phệ 62 tuổi Milea suốt bao nhiêu năm qua là một
trong những kẻ nham hiểm nhất trong hàng ngũ những tên nịnh hót bao
quanh Ceausescu. Ông được một số sĩ quan cao cấp nể trọng, nhưng các sĩ
quan cấp dưới thì chẳng xem ông ra gì. Tức khắc, ông được biến trở thành
vị tử đạo của cuộc cách mạng đang diễn ra.
Quân về với dân
Tư
lệnh của cả ba binh chủng quân đội đều đồng loạt từ bỏ Ceausescu và xem
ông như kẻ không còn mảy may chính nghĩa. Binh sĩ của họ cũng lập tức
đứng về hàng ngũ những người đang nổi dậy.
Binh
lính tháo băng đạn ra khỏi nòng súng và huơ lên cao cho dân thấy. Một
số xe tăng sáng hôm đó được lệnh án ngữ các đại lộ trung tâm thành phố,
giờ đây nắp xe tăng mở tung và lính binh chủng tăng cũng đứng lên vẫy
chào quần chúng xung quanh. Một tiếng hô nữa lại vang dội trên Quảng
trường Palace và lan ra toàn thành phố: “Quân đội – đã về với nhân dân.” [10]
Khoảng 11 giờ 30 sáng, một chiếc trực thăng trắng đã đáp xuống sân thượng Trụ sở Đảng, trong tiếng la ó của quần chúng bên dưới.
Ceausescu
cố gắng nói chuyện với dân chúng lần nữa nhưng ông đã hoàn toàn thất
bại. Ông bước ra ban-công tầng một, nơi ông đã đọc diễn văn hôm trước.
Nhưng lần này thì quần chúng lấy gạch đá và những gì có thể nhặt được
ném ông.
Cận vệ kéo ông và bà vợ Elena rời khỏi ban-công đi về phía thang máy.
Dân vào nhà, Chủ tịch lên mái
Một
nhóm người biểu tình lúc đó đã phá được cổng thép lớn dẫn vào tòa nhà.
Với số đông, họ áp đảo và đoạt súng của lính gác. Họ chạy ùa lên thang,
nơi cận vệ Ceausescu chống cự. Nhưng sau khi chống cự quyết liệt được
vài phút, những cận vệ này cũng đầu hàng.
Đám
đông tiếp tục tràn vào, băng qua phòng làm việc của Ceausescu và xuất
hiện trên ban-công, nơi họ được hàng ngàn người đứng dưới quảng trường
hoan hô, cổ vũ.
Không
ai trong số người nổi dậy này biết rằng lúc đó, họ chỉ đứng cách nhà
độc tài bị họ ghê tởm có vài mét mà thôi. Lúc này, ông đang bị kẹt trong
thang máy và thoát được chỉ nhờ may mắn.
Biệt
đội mật vụ bảo vệ ông đã quyết định không đi xuống tầng hầm, nơi những
người còn sót lại cùng ông có thể dùng hệ thống đường ngầm bí mật để
thoát hiểm. Họ quyết định đi lên sân thượng. Nhưng rủi thay, điện bị mất
khi các cuộc đụng độ xảy ra, thang máy kẹt cứng trước khi đến được tầng
cao nhất.
Sau
vài phút loay hoay vất vả, các cận vệ cậy bung được cánh cửa thang máy
và đưa lãnh tụ và vợ, lúc này đang thở gấp, đứt đoạn và hốt hoảng, leo
lên sân thượng.
Họ
được hai người tin cậy nhất tháp tùng: Thủ tướng Emil Bobu, và Phó Thủ
tướng Manea Manescu, một trong những anh em rể của Ceausescu.
Trực thăng nóc nhà
Cánh quạt trực thăng Ecureuil, do Pháp chế tạo, lúc đó đang quay phần phật. Họ phải quyết định nhanh.
Phi
công trực thăng, Thiếu tá Vasile Malutan, 46 tuổi, cũng có chiếc bụng
phệ, tiếp đón họ. Ông là phi công riêng của Ceausescu trong tám năm qua,
nhưng lần này ông lại không hề muốn tham gia vào chuyến di tản bất đắc
dĩ.
Ông
kể: “Tôi được lệnh bay đến sân thượng tòa nhà và ở đó chờ. Ban đầu,
thực ra là có bốn chiếc trực thăng, ba chiếc để chở thành viên chính
phủ. Nhưng nhiệm vụ của ba trực thăng kia đã bị hủy bỏ. Bản thân tôi
cũng nghĩ tới việc bay khỏi nơi này… mà không đón bất cứ ai. Nhưng tôi
thấy một số tay mật vụ chuyên bắn tỉa trên các mái nhà gần đó. Tôi sợ
nếu họ thấy tôi bay đi mà không đón ai thì họ sẽ bắn hạ tôi ngay. Tôi
gọi điện về căn cứ hỏi: ‘Tôi có cần ở lại không?’ Họ trả lời: ‘Có, cứ ở
lại chờ!’” Lúc đó Malutan biết rõ những gì đang xảy ra dưới kia, vì căn
cứ liên tục kể cho ông nghe những gì dân Rumani đang thấy trên TV.
Khi
phát hiện số người chuẩn bị lên máy bay quá đông, Malutan thốt lên:
“Đông quá, không chở hết!” Nhưng ngay lúc đó, một số người biểu tình đã
leo lên được mái nhà và có thể ào lên trực thăng trong giây lát. Thế là
đám người tháo chạy mặc kệ lo ngại của phi công, trèo lên trực thăng.
Khi
cất cánh, chiếc trực thăng đã phải ì ạch, may mắn lắm mới rời khỏi nóc
nhà. Phi công kể: “Nếu đậu trên mặt đất, tôi không nghĩ mình có thể bay
lên.”
Lúc
đó là 12 giờ trưa. Trong trực thăng có tổng cộng chín người, gồm cả ba
người tổ bay. Quá chật đến nỗi một người trong tổ bay phải ngồi trên đùi
một cận vệ.
Elena khóc như mưa. Ceausescu hoàn toàn suy sụp.
Sau
vài phút bay, phi công Malutan quay hỏi Ceausescu: “Đi đâu?” Vị lãnh tụ
bối rối. Ông và Elena tranh cãi một lát rồi cuối cùng Ceausescu nói:
“Đi Snagov”, một điểm cách Bucharest 60 km về phía tây bắc, nơi ông có
một dinh thự ven hồ. [11]
Ồ-lê, Ô-lế, Ô-lề
Niềm vui vỡ oà tại Quảng trường Palace khi quần chúng nhìn thấy chiếc trực thăng của Chủ tịch hối hả rời thành phố.
Khắp
nơi, đâu cũng thấy lá cờ Rumani ba màu đỏ, xanh dương, vàng với một lỗ
tròn chính giữa – huy hiệu búa liềm giữa cờ đã bị đục bỏ còn lại một lỗ
tròn vo.
Quần
chúng cất tiếng hát, hầu hết hát theo giai điệu bài hát bóng đá nổi
tiếng được cất lên trong bất cứ trận bóng nào. Họ hát rằng:
Ole, Ole, Ole, Ole
Ceausescu unde é?
Ole, Ole, Ole, Ole
Ceausescu nu mai é!
(Ồ-lê, Ồ-lê, Ồ-lế, Ô-lề
Ceausescu đâu rồi?
Ồ-lê, Ồ-lê, Ồ-lế, Ô-lề
Ceausescu hết thời!)
Hàng
trăm người tràn ngập trụ sở Đảng. Khi ùa vào tòa nhà, họ tin rằng họ là
những người khởi nghĩa và chính họ đã lật đổ nhà độc tài. Nhưng đó là
một đoàn người hỗn độn, ngẫu nhiên hình thành vì có mặt vào đúng nơi,
đúng lúc. Trong số, có công nhân xí nghiệp, tài xế taxi, thư ký văn
phòng, giáo viên… Một trong những người đầu tiên lọt vào sảnh trung tâm
tòa nhà là một cô phục vụ quày rượu tại khách sạn du lịch
InterContinental gần đó.
Trong
văn phòng khổng lồ, nơi Ceausescu từng làm việc, họ thảo luận hàng giờ
đồng hồ nhưng hoàn toàn không có tổ chức. Không ai trong họ có kinh
nghiệm làm việc trong guồng máy chính quyền, hoặc thuộc phe đối lập. Ai
cũng có ý kiến, nhưng không ai có quyền lực. Giữa tình thế hỗn độn này,
quyền lực lại nằm ở chỗ khác.
Truyền
hình giữ một vai trò then chốt trong Cách mạng Rumani, nhưng không phải
các đài phát thanh hay truyền hình quốc tế đã tạo nên bước chuyển. Vào
ngày hỗn loạn đầu tiên, sau khi Ceausescu bỏ chạy, các studio ghi hình
của Đài Truyền hình Rumani đã bỗng nhiên trở thành trụ sở của chính
quyền cách mạng.
Gelu
Voican-Voiculescu, một trong những lãnh đạo đầu tiên thời kỳ
hậu-Ceausescu, cho biết: “Thành công của chúng tôi là thành công trong
việc sử dụng sức mạnh truyền hình.” [12]
Lên Đài
Từ
sáng ngày 22 tháng 12, bất cứ ai ở Bucharest có chút ảnh hưởng, hoặc
nghĩ mình có chút ảnh hưởng, đều ghé đến trụ sở của Đài Truyền hình
Rumani, một tòa nhà bằng bê-tông xấu xí nằm trên một đại lộ trung tâm
thành phố.
Ion
Iliescu, được biết tới trong hàng ngũ Đảng Cộng sản như một đối thủ cẩn
trọng của Ceausescu, kể lại rằng khoảng giữa sáng hôm đó, anh mật vụ
Securitate vẫn lẽo đẽo theo dõi ông trong bao nhiêu năm nay tự nhiên
biến mất. Thế là ông đi thẳng đến Đài Truyền hình.
Tướng
Victor Stanculescu, mới được phong chức Bộ trưởng Quốc phòng sáng hôm
đó, thay cho Tướng Milea đã chết, cũng là người khuyên Ceausescu thoát
thân bằng trực thăng, cũng đến Đài Truyền hình, cùng một số sĩ quan cao
cấp khác.
Nhà
thơ phản kháng Mircea Dinescu cũng thế. Ông bị quản thúc tại gia ở
Bucharest suốt sáu tháng trước vì dám trả lời phỏng vấn của tờ báo Pháp Libération. Ông cũng đi thẳng đến Đài Truyền hình. Đến Đài Truyền hình vô tình đã trở thành một việc làm tiêu biểu của Cách mạng Rumani.
Ông
kể lại: “Sáng thứ Sáu 22 tháng 12, một người hàng xóm gọi điện báo cho
tôi rằng mấy anh mật vụ Securitate có vũ trang đứng gác trước cửa nhà
tôi đã đi rồi, không còn nữa. Thế là tôi đi ra ngoài, đảo một vòng xem
sao. Đúng vậy, họ đi rồi! Thế là tôi lang thang vào thành phố. Rồi một
đám đông người biểu tình ùa đến với tôi, họ nhấc bổng tôi lên. Họ đặt
tôi đứng trên một chiếc xe bọc sắt và loan báo với binh lính chung quanh
rằng ‘Đây là Dinescu! Hãy đưa ông ấy đến Đài Truyền hình!’ Mọi sự diễn
ra như trong một cuốn phim dở về cách mạng.”
Diễn
viên Nhà hát Quốc gia, Ion Caramitru, một trong những nghệ sĩ được ưa
chuộng nhất trong nước, cũng được chở đến Đài Truyền hình trên nóc một
chiếc xe tăng.
‘Có biết gì đâu’
Một
giờ đồng hồ sau khi Ceausescu tẩu thoát, giữa những hỗn độn, không biết
phải làm gì, ban điều hành Đài Truyền hình đã cho ngưng phát sóng.
Nhưng khoảng 1 giờ chiều, truyền hình trực tiếp lại được tiếp tục và
những người đầu tiên xuất hiện trên TV là nhà thơ và diễn viên kể trên.
Họ mỉm cười thật rạng rỡ và vui vẻ. Nhà thơ Dinescu công bố: “Nhà độc
tài đã bỏ chạy.” Đến cuối ngày thì nhà thơ này sẽ trở thành một bộ
trưởng trong chính phủ mới.
Với
hàng triệu người Rumani sống bên ngoài thủ đô Bucharest thì đó là bản
tin đầu tiên họ được nghe về cuộc cách mạng ở Bucharest. Một trong số là
Silviu Brucan, một trí thức phản kháng, kẻ đối đầu với Ceausescu [lúc
đó bị giam lỏng ở ngoại ô Bucharest] nghe xong bản tin, ông cũng đến Đài
Truyền hình.
Diễn
viên Caramitru tâm sự: “Cảm giác giải thoát và phấn khích sau ngần ấy
năm ngộp thở quả thực là hết sức say mê! Nhưng chúng tôi có biết gì đâu!
Làm sao chúng tôi thành lập được chính phủ bây giờ? Tôi chỉ là diễn
viên mà thôi. Tôi hoàn toàn không có một khái niệm mình sẽ là Tổng thống
hay gì khác.” [13]
Nhưng
trong số vẫn có những người nắm được bản chất của quyền lực. Ion
Iliescu và những người theo phe ông thấy ngay cơ hội kiểm soát cuộc cách
mạng, và họ đã lập tức nắm lấy.
Mới như cũ
Khi
Ion Iliescu đến Đài Truyền hình thì mọi sự đang hỗn loạn. Ông kể lại:
“Ai cũng muốn nói, cũng cho thấy thiện chí. Nhưng tôi cảm thấy rằng phải
tái lập trật tự, vì thiện chí và cảm xúc thuần túy có thể dẫn đến tình
trạng vô chính phủ.”
Ông
và một vài quan chức cộng sản bị Ceausescu đối xử tệ không thăng chức
trước đó, cùng một số đông các tướng lĩnh và một vài trí thức phản kháng
đã thành lập chính quyền từ những mảnh đổ nát còn sót lại của nền độc
tài Ceausescu.
Cũng
vì vậy, một giả thuyết được lan truyền rộng rãi rằng: có một âm mưu
tiếm quyền được tính toán kỹ lưỡng. Giả thuyết này được người dân Rumani
và các nơi khác tin là thật.
Sự
xuất hiện của quá nhiều người cộng sản cũ, chưa hề thay da đổi thịt,
trong chính quyền mới, và sự khó khăn của quá trình dân chủ hóa sau đó
càng làm cho giả thuyết vừa kể trên nghe đáng tin hơn.
Thực
ra, không có chứng cớ hay tài liệu gì khẳng định giả thuyết kia là
đúng. Giả thuyết cũng tự mâu thuẫn, một mặt công nhận tình hình hỗn loạn
không thể dự đoán khi quần chúng nổi dậy và nhà độc tài bỏ chạy, một
mặt lại nói tới âm mưu được tính toán cẩn thận hàng tháng trước. Rõ ràng
mặt này phủ nhận mặt kia, khiến kết luận về một âm mưu lật đổ có từ
trước trở nên khó tin.
Không thể và có thể
Nhưng
vẫn có nhân vật, như Tướng Nicolae Militaru, người trở thành Bộ trưởng
Quốc phòng trong chính quyền mới, khẳng định là đã có một kế hoạch từ
trước.
Ông
nói kế hoạch lật đổ Ceausescu dự tính sẽ diễn ra vào tháng 2 năm 1990.
Ceausescu sẽ bị bắt giam khi đang ở ngoài Bucharest và sẽ bị vô hiệu hóa
bằng súng bắn thuốc mê, lúc đó quân đội và lực lượng cách mạng nòng cốt
sẽ tuyên bố đảo chính. Tuy nhiên, súng bắn thuốc mê sẽ chỉ được chuyển
đến vào giữa tháng 1, 1990, vì thế, cuộc cách mạng vừa rồi đã đi trước
cuộc đảo chính dự định. Chính phủ mới dự định sẽ được đặt tên là Mặt
trận Cứu nguy Tổ quốc và Ion Iliescu sẽ là người đứng đầu.
Tuy
nhiên, Ion Iliescu và các thành viên hàng đầu của chính quyền
hậu-Ceausescu đã bác bỏ ý kiến về âm mưu kể trên. Iliescu nói: “Nhiều
người đã bàn về việc cần làm trong tương lai, về cách để thoát khỏi thảm
trạng hiện nay. Tôi cũng có nói chuyện với giới quân sự. Nhưng liệu họ
có dám hành động để loại bỏ chế độ Ceausescu không? Có kế hoạch, cũng
phải có điều kiện thuận tiện cho kế hoạch thành công. Chúng tôi bàn bạc
xem có thể làm gì, nhưng… mọi sự đã rõ – từ những người ở trong quân đội
hay các tập thể khác – rằng không thể làm được bất cứ điều gì!” [14]
Khi
Iliescu nói chuyện trên TV chiều thứ Sáu 22 tháng 12, ông tỏ ra là một
nhân vật có uy quyền, ông hứa sẽ đưa kẻ bấy lâu đầy đọa người dân Rumani
ra ‘xét xử trước công chúng.’ Ông cũng nói nhiệm vụ trước mắt là tái
lập trật tự, vì vào lúc đó, chưa ai biết chắc liệu Ceausescu có phản
pháo hay không. Rồi ông kêu gọi ‘mọi người dân có trách nhiệm’ đứng ra
thành lập các Ủy ban Cứu nguy Tổ quốc.
Đến
6 giờ tối cùng ngày, quân đội xem như đã hoàn thành việc đưa Iliescu
lên làm người đứng đầu chính quyền mới, một chính quyền còn chao đảo,
yếu ớt, ra đời trong bất định và hỗn độn, nhưng có một nhiệm vụ cấp bách
bậc nhấc: Dập tắt nguy cơ một cuộc nội chiến.
Khủng bố di động
Súng
đã nổ lúc 7 giờ tối. Các nhóm nhỏ sĩ quan mật vụ Securitate trung thành
với Ceausescu bắt đầu nổ súng bừa bãi vào đám đông trên đường phố đang
ăn mừng cách mạng. Các cuộc nổ súng đã diễn ra nghiêm trọng trong một
ngày hai đêm, rồi thưa thớt hơn một ngày sau đó.
Thật
khó xác định ai bắn vào ai và vì sao. Hầu hết các vụ bạo động diễn ra
gần như vô cớ và tùy tiện. Chẳng hạn như vụ bắn phá Thư viện Quốc gia,
với kiến trúc tân-cổ-điển rất đẹp, trong lúc Thư viện không có một ai.
Rút cuộc, chỉ có hàng trăm pho sách quý hiếm bị tiêu hủy.
Mật
vụ Securitate hoạt động chiếu theo công lệnh có mã số 2600, vốn quy
định cách chiến đấu trong tình huống có ngoại xâm hoặc có nổi dậy nghiêm
trọng. Không rõ ai đã kích hoạt lệnh này, vì những người cao cấp nhất
của Securitate, gồm cả Tướng Vlad, đều đã bỏ qua hàng ngũ cách mạng.
Chiến thuật được dùng không nhắm mục tiêu quân sự, mà được thiết kế để
khủng bố, làm dân chúng sợ bao nhiêu tốt bấy nhiêu.
Trước
tình thế này, quân đội cũng không biết đáp trả ra sao. Phần lớn binh
lính vừa nhập ngũ, chưa được huấn luyện kỹ, cũng chưa từng bắn phát súng
sát thương nào. Phân biệt đâu là bạn đâu là thù thật khó, nhất là khi
có hàng ngàn thường dân được binh lính giao vũ khí lấy từ các trại lính.
Những
mật vụ “khủng bố” lại hay mặc thường phục hoặc ngụy trang thành lính.
Họ chia thành từng toán nhỏ, đi trong các đường ngầm và cống rãnh để di
chuyển quanh Bucharest, sau đó chui lên, tấn công các đơn vị quân đội
hay mục tiêu dân sự rồi đột ngột lặn mất.
Tấn công Đài Truyền hình
9
giờ tối, thứ Sáu 22 tháng 12, họ tấn công Đài Truyền hình, nhưng dường
như không để chiếm đóng. Lúc này, Đài Truyền hình đã được nhiều xe tăng
bao quanh để bảo vệ. Lực lượng bảo vệ cũng là tân binh, chỉ được huấn
luyện trong vòng chưa đầy hai tháng và lại mặc áo giáp hạng nặng, phù
hợp với chiến trường lớn hơn là để chống du kích chiến trên đường phố.
Cuộc đọ súng nổ ra trong khoảng một tiếng. Có 62 người chết, phần lớn là
thường dân mắc kẹt giữa hai làn đạn. Đài Truyền hình còn bị tấn công
vài lần nữa trong mấy ngày kế tiếp. Tuy vậy, tin đồn lại lan ra rằng
hàng ngàn người đã chết và Bucharest đã tắm máu, giao tranh diễn ra dữ
dội.
Trên
toàn cõi Rumani, số người chết chính xác là 1.104 người, trong số có
493 chết tại Bucharest và một phần ba là những tay mật vụ “khủng bố”. Có
3.352 người bị thương, 2.000 trong số là ở Bucharest. Sự kiện riêng rẽ
tệ hại nhất là một vụ quân mình bắn quân ta. Sáng sớm ngày thứ Bảy 23
tháng 12, binh lính canh gác phi trường Otopeni của Bucharest đã vô tình
nổ súng vào xe chở lực lượng tiếp viện đến bổ sung quân số cho họ.
Theo
lời kể của Valentin Gabrielescu, chủ tịch cuộc điều tra của Thượng viện
về các vụ giao tranh trong thời gian cách mạng, thì phần lớn người chết
là “thường dân vô tội, bị kẹt giữa làn đạn của một bên là lính mới đang
hoảng loạn, và một bên là thường dân nã súng vào bọn khủng bố. Cùng với
quân đội và công an, hàng ngàn thường dân cũng được vũ trang, họ lại bị
áp lực vì tin đồn thất thiệt và những mối nguy tưởng tượng… người này
cứ thế bắn vào người kia. Thật hỗn loạn.” [15]
Cuộc tẩu thoát bi hài
Cuộc
tẩu thoát của Ceausescu phải nói là vừa bi vừa hài. Xế chiều hôm đó thì
cặp vợ chồng sẽ bị bỏ rơi, không nơi nương tựa và bị bắt. Nhưng trước
hết, hãy trở lại với cuộc tháo chạy bằng trực thăng vào ngày thứ Sáu 22
tháng 12.
Sau
khi thoát nạn trong gang tấc khi bay khỏi nóc nhà trụ sở Đảng, họ tiếp
tục bay trong 20 phút đến Snagov, nơi hai ông bà có căn dinh thự 42
phòng, nhưng cũng không ở đây lâu. Ceausescu gọi một loạt cuộc điện
thoại nói chuyện với các bí thư tỉnh ủy xem còn nơi nào sẵn sàng cho ông
đến lánh nạn không. Hai ông bà không tính đến chuyện trốn ra nước
ngoài. Ceausescu cau mày khi được báo cáo cách mạng đã lan ra khắp nơi.
Họ
lên căn phòng trên tầng một, lục tung tủ rả, đổ mọi thứ từ ngăn kéo ra,
lật ngược nệm giường, rồi dồn mọi thứ vào những túi màu xanh, kể cả hai
ổ bánh mì. Sau 15 phút, khoảng 1 giờ 20 chiều, họ vội vã chạy trở lại
trực thăng đang chờ. Họ cho hai hành khách bất đắc dĩ là Thủ tướng Bobu
và Phó Thủ tướng Manescu rời đoàn để đi bằng xe, tự lo cho bản thân.
Trước khi đi, Manescu [em vợ Ceausescu] đã quỳ xuống, hôn tay Chủ tịch.
Bi hài trên không
Giờ
thì vợ chồng Ceausescu chỉ còn có hai người cận vệ đi theo, Trung úy
Florian Rat và Marian Rusu. Viên phi công thì nãy giờ nóng lòng muốn bỏ
mặc Chủ tịch và bầu đoàn của ông, nhưng hai cận vệ cứ chĩa súng vào anh,
bảo anh phải làm những gì Chủ tịch yêu cầu.
Phi
công Malutan kể: “Khi đã vào chỗ trên trực thăng, Ceausescu hỏi tôi
‘Anh ở phe nào? Ta đi đâu đây?’ Tôi đáp: ‘Ông bảo đi đâu thì đi đó!’
Chúng tôi cất cánh lúc 1 giờ 30 chiều. Hai cận vệ rất căng thẳng. Họ cứ
chĩa súng ngắn tự động vào tôi. Trong khi đó thì qua tai nghe, tôi nghe
tiếng chỉ huy của mình nói rằng ‘Vasile, nhớ nghe radio. Cách mạng đang
diễn ra!’ Ngay sau đó, Ceausescu ra lệnh cho tôi cắt đứt liên lạc radio
với căn cứ. Tôi rất muốn thuyết phục ông ta cho tôi hạ cánh… nhưng tôi
có một mình, lại bị cắt đứt liên lạc với chung quanh.” [16]
Phi
công được lệnh bay đi Pitesti ở tây nam Rumani. Anh cố tình bay lên cao
“để ra-đa phát hiện ra chúng tôi”. Nhưng một trong hai cận vệ đoán được
ý đồ của anh nên hỏi: “Vasile! Anh làm quái gì thế?” Phi công quay qua
nói với Ceausescu: “Chúng ta bị ra-đa phát hiện rồi!” Vợ chồng Ceausescu
rất hốt hoảng. Ceausescu la to: “Bay xuống! Hạ cánh gần đường lộ!”
Phi công cho trực thăng hạ cánh trên một cánh đồng cách Titu 4 km, ngay bên ngoài làng Salcuta. Lúc đó là 1 giờ 45 chiều.
Bi hài trên cạn
Cận
vệ Marian Rusu ngoắc hai chiếc xe hơi đi ngang. Vợ chồng Ceausescu và
cận vệ Florian Rat lên một xe. Còn Rusu, cận vệ riêng của Elena trong
nhiều năm, lên chiếc xe còn lại. Rushu hứa sẽ bám theo họ ngay phía sau.
Nhưng, Rusu đã bỏ rơi họ ngay sau đó.
Chiếc
xe vợ chồng Ceausescu ngồi là chiếc Dacia màu đỏ do Bác sĩ Nicolae Deca
lái. Ông bác sĩ lập tức nhận ra ai đang ngồi trong xe mình, và ông tìm
cách tránh xa các vị khách bất đắc dĩ này càng sớm càng tốt. Ông nói xe
hết xăng. Dĩ nhiên là nói dối, nhưng lại nghe rất có lý trong tình hình
khan hiếm ở Rumani lúc bấy giờ.
Cận
vệ Rat lại bắt một tài xế khác chở, đó là Nicolae Petrisor, 25 tuổi,
khi anh đang ở trước cửa nhà mình. Ceausescu bảo anh lái xe đến
Targoviste, nơi có một nhà máy kiểu mẫu – xây chỉ đề làm màu, lấy tiếng –
mà ông đã từng ghé thăm vài lần cùng quan khách nước ngoài. Người ở đó
là những công nhân được đặc biệt ưu đãi, là những người cộng sản trung
thành, chắc chắn họ sẽ đón tiếp ông bà, Ceausescu nói với Elena như thế,
nhưng bà vẫn tỏ vẻ nghi ngại.
Khi họ đến Targoviste, thì oái oăm thay, thị trấn này cũng đang tưng bừng ăn mừng tin cách mạng nổ ra.
Họ
bỏ cận vệ Rat bên ngoài thị trấn. Sợ bị nhận diện, hai vợ chồng cứ phải
cúi đầu, giấu mặt. Petriso được lệnh lái xe đến một đồn điền mà hai ông
bà đã thăm viếng nhiều lần. Giám đốc đồn điền, Victor Seinescu, cho họ
vào.
Nhưng
đến khoảng 2 giờ 45 chiều, Seinescu lại gọi dân quân địa phương và báo
cho họ biết lai lịch của hai vị khách. Vợ chồng Ceausescu được hai dân
quân mặc đồng phục dẫn đi. Nhưng phải đến ba giờ sau đó, họ mới được
giao nộp cho quân đội, dù trại lính chỉ cách đó 450 mét.
Cũng
như rất nhiều những sĩ quan cao cấp chiều hôm đó, Seinescu phải quyết
định mình theo phe nào. Cuối cùng thì ông quyết định giao vợ chồng
Ceausescu cho quân đội. Khoảng gần 6 giờ tối, họ được đưa tới trại lính
tại Targoviste, nơi đóng quân của một đơn vị pháo phòng không.
Chỗ ở cuối cùng
Thật
khó đưa hai người đến trại lính mà không bị ai phát hiện. Vì vậy, vợ
chồng Ceausescu được đưa lên một xe bọc sắt để tránh ánh mắt của công
chúng, và xe phải đi đường vòng tới trại lính. Chuyến đi mất khoảng năm
phút.
Đến
nơi, ông bà được đưa đến nơi trú ngụ cuối cùng. Một văn phòng được biến
thành hai khu riêng, cách nhau một dãy bàn. Hai chiếc giường lính đặt
trong góc phòng, có chăn nhưng không có khăn trải. Một lò sưởi lớn bằng
gốm nằm ở góc phòng còn lại, cạnh đó là bồn rửa có vòi nước lạnh.
Khu
vực tầng trệt này của trại lính được cách ly với mọi người, chỉ trừ một
vài sĩ quan và hạ sĩ quan được chọn lọc đặc biệt. Thiếu tá Ion Secu là
người có mặt với hai vợ chồng trong hai ngày rưỡi cuối cùng sắp tới của
họ.
Thoạt
đầu, Secu cho biết: “Ceausescu cư xử như ông vẫn đang là Tổng Tư lệnh
tối cao. Câu đầu tiên ông nói là ‘Tình hình thế nào rồi? Báo cáo tôi
nghe!’ Tôi đáp rằng ‘Chúng tôi ở đây là để bảo vệ ông khỏi quần chúng.
Nhưng chúng tôi phải tuân lệnh những người cầm quyền tại Bucharest!’ Câu
đó làm ông nổi nóng, châm ngòi cho một chuỗi những lời nguyền rủa bọn
phản bội đã chủ mưu chống lại ông. Phải một lúc sau ông mới hiểu ra thực
trạng là mình đang bị giam giữ.” Tâm trạng của ông biến động, lúc thì
im lặng, tuyệt vọng, lúc thì kích động la lối, nguyền rủa bọn ‘phản
bội’.
Người
chỉ huy, Trung tá Mares, lo lắng cho an ninh của ông trên hết. Lúc đó
trong căn cứ có 500 binh sĩ và 40 nhân viên dân sự. Ai biết được sự có
mặt của Ceausescu đều bị hạn chế rời khỏi căn cứ.
Một triệu đô và nạt nộ
Thỉnh
thoảng, Ceausescu cũng dở trò dụ dỗ người khác. Một trong những người
canh giữ ông 24/24 kể lại rằng: “Ông đến gần tôi… chìa tay ra cho tôi,
nói rằng ‘Tôi sẽ cho cậu một triệu đô Mỹ, và bất cứ cấp bậc nào trong
quân đội mà cậu thích, nếu cậu giúp đưa chúng tôi ra khỏi đây!’ Nhưng
tôi không tin ông ấy nói thật lòng. Tôi nghĩ thầm, chưa chắc đã được
triệu đô, mà có khi lại ăn ngay một viên đạn vào gáy không chừng. Nên
tôi nói với ông ‘Không được đâu!’”
Với
Elena thì đó là ba ngày bà càm ràm không ngừng. Người canh gác bà kể
lại: “Bà chê hết cái này đến cái khác! Bà ấy sợ, nhưng lúc nào cũng giận
dữ, cơn giận của bà cũng thật đáng sợ. Ông Ceausescu bị tiểu đường nên
phải đi vệ sinh nhiều lần, mà nhà vệ sinh cuối hành lang thì lại bốc mùi
hôi thối. Bà dứt khoát không chịu dùng nhà vệ sinh kia! Thế là chúng
tôi phải đưa cho bà một cái bô để đi trong phòng. Lúc nào tôi nói điều
gì với ông thì bà đều nạt nộ rằng ‘Anh dám ăn nói với vị Tổng Tư lệnh
như thế à?!’”
Đêm
đầu tiên hôm đó, theo lời Secu kể lại, họ ngủ chung một chiếc giường
đơn, họ co cụm lại, hai người già giang tay ôm lấy nhau. Secu cho biết:
“Họ nói thì thầm, nhưng dù đang ôm nhau họ vẫn cứ càm ràm cãi qua cãi
lại. Có lúc Ceausescu nói ‘Nếu bà nói tôi biết sớm mấy chuyện bà biết,
thì tôi đã xử thằng Iliescu đó rồi! Tôi đã cho nó đi đời mùa hè vừa rồi.
Nhưng bà đâu có cho tôi biết!’ Bà thì cũng có lúc cự lại ông rằng: ‘Tất
cả là lỗi tại ông. Đáng lẽ mình không nên đến đây ngay từ đầu. Tại ông
hết!’”
Ăn sĩ quan, mặc ngụy trang
Họ
không chịu ăn bất cứ thứ gì, ngoại trừ bánh mì và táo, và chỉ uống nước
trà không đường. Thức ăn được đưa đến cho họ từ nhà ăn của các sĩ quan,
nhưng họ không đụng đến, dường như sợ thức ăn có thuốc độc.
Buổi
sáng đầu tiên hôm sau, các sĩ quan cho họ mặc quần áo lính, để nếu trại
lính có bị mật vụ Securitate trung thành với ông bà tấn công thì chúng
cũng khó tìm ra hai ông bà. Họ yêu cầu Ceausescu cởi áo choàng sẫm màu
và mũ lông để mặc quần áo lính. Elena không chịu thay quần áo. Lính gác
phải dùng sức để lột chiếc áo choàng cổ lông thú trên người bà, rồi
choàng cho bà chiếc áo khoác quân đội mùa đông và chụp lên đầu bà chiếc
mũ lính.
Dụ dỗ cuối cùng, súng nổ đêm Giáng sinh
Đêm đó, Ceausescu một lần nữa tìm cách dụ dỗ người khác để thoát thân.
Theo
lời kể của Thiếu tá Secu: “Ông thấy tôi lơ mơ ngủ gật. Bà Elena thì ở
trên giường nhưng mắt dõi theo mọi thứ, bà hoàn toàn tỉnh táo và chăm
chú. Ông nói với tôi ‘Anh mệt phải không? Mệt là đúng rồi!’ Rồi ông hỏi
thăm gia đình tôi. Tôi bảo tôi có vợ và một con, hiện sống trong một căn
hộ nhỏ. Ông nói ‘Khó đấy! Anh xứng đáng được hưởng nhiều hơn thế. Tôi
bảo này! Tôi có thể cho anh một căn biệt thự ở Kieseleff [một quận nhà
giàu, thời thượng ở Bucharest]. Biệt thự có bảy hoặc tám phòng, nhiều
hơn nếu anh muốn. Và một nhà để xe, chiếc xe trong đó cũng không nhất
thiết phải là chiếc Dacia xoàng xĩnh!’ … Tôi không nói gì và ông lại
tiếp tục thuyết phục ‘Anh không nên hy sinh cả đời mà chẳng được cái gì!
Nếu anh đưa tôi ra khỏi đây và đến Đài Truyền hình để tôi nói chuyện
với nhân dân thì tôi thấy là tôi có thể cho anh một triệu, không, hai
triệu đô-la!’” [17]
Vào
Đêm Vọng Giáng sinh, 24 tháng 12, lực lượng mật vụ Securitate cuối cùng
cũng tìm ra chỗ giam giữ vợ chồng Ceausescu và dàn quân ngay trước trại
lính. Vừa quá nửa đêm, họ nổ súng, nhưng cuối cùng đã bị lực lượng quân
đội đẩy lui.
Trước
đó một giờ, vợ chồng Ceausescu đã phải mặc áo choàng kín, đưa vội vã
vào xe bọc sắt đặt trong một khu vực có che chắn, và được yêu cầu nằm úp
mặt xuống sàn xe. Họ đã ở đó suốt năm giờ, đến khi giao tranh kết thúc.
Một lần nữa họ được đưa trở lại căn phòng của mình trong trại. Và đó là
nơi ở cuối cùng, trong đêm cuối cùng đời họ.
Làm thế nào để giết Ceausescu?
Chính
quyền mới cần phải khẳng định quyền hành của mình. Vào chiều 24 tháng
12, các cuộc giao tranh tại Bucharest và các thành phố lớn như Siiu và
Brasov đã bớt nghiêm trọng, nhưng các vụ nổ súng lẻ tẻ vẫn diễn ra và số
thương vong vẫn tăng. Những người chủ trương ôn hòa trong hàng ngũ cách
mạng rất không thích cái tên Mặt trận Cứu nguy Tổ quốc, vì nghe rất
‘Stalin-nít’. Nhưng Iliescu và những người Cộng sản thâm niên có mặt
trong chính quyền mới thì lại nghĩ nó gợi lên tinh thần ái quốc.
Khoảng 5 giờ chiều, họ họp nhau lại để quyết định số phận của Ceausescu.
Đó
là một cuộc họp nặng nề, nóng nảy và cay cú. Họ chần chừ đã hai ngày
qua. Giờ đây, phe quân đội muốn xử tử Ceausescu ngay lập tức, vì như thế
sẽ lập tức chấm dứt mọi giao tranh, Ceausescu chết thì sẽ không còn
điểm chung nào nữa, không ai còn lý do nào để chiến đấu nữa.
Iliescu
lúc đầu lưỡng lự, ông không muốn tay mình vấy máu. Nhưng khi Bộ trưởng
Quốc phòng mới Militaru mỉa mai nặng lời rằng: “Vâng! Đúng rồi! Đó sẽ là
một khởi đầu tệ hại cho triều đại của ông chứ gì?!”, thì Iliescu giận
dữ đáp lại: “Ý anh là gì, triều đại của tôi à? Làm gì có triều đại nào ở
đây!”
Một
vài người cho rằng việc vội vã dựng lên phiên tòa dã chiến, không có
chứng cớ hẳn hoi, sẽ khiến quốc tế chỉ trích. Nhưng các tướng lĩnh quân
đội đã quyết tâm, không nhân nhượng. Brucan ủng hộ họ, nói rằng đất nước
Rumani cần được bảo đảm rằng chế độ độc tài Ceausescu đã chết, đã chấm
dứt, và không có cách nào hay hơn là ‘cho quần chúng thấy xác chết của
Chủ tịch’.
Iliescu
cuối cùng bị thuyết phục. Ông nói: “Đúng ra là nên có một phiên xét xử
đúng quy trình và trưng ra được mọi chứng cớ cần thiết. Nhưng tình hình
không cho phép. Vậy hãy tiến hành xét xử vào ngày mai!”
Bản
án được quyết định bởi một số ít người sau cuộc họp vừa kể và cũng
chẳng có gì được lưu lại trên văn bản. Chỉ biết rằng Iliescu, Brucan,
Militaru, Voican-Voiculescu và Stanculescu tất cả đều quyết định dùng
đội xử bắn ngay sau phiên xét xử. [18] [Xem chi tiết vụ xét xử trong
“Phần 2: Xử Ceausescu” - ND]
Phản ứng
Dường
như không có bất cứ lời phản đối nào, ngoại trừ nhà thơ Anna Blandiana
bày tỏ thái độ bất đồng. Trong những giờ đầu tiên đầy phấn khích của
cách mạng, bà được bổ nhiệm vào một vị trí trong Mặt trận để chứng tỏ đó
là ‘chính quyền của hiền tài’. Nhưng bà không hề được thông báo về
quyết định tử hình Ceausescu, và bà kinh hãi trước quyết định này. Bà từ
chức ngay sau vụ xử bắn. Đó là vết rạn nứt đầu tiên trong một chuỗi
những rạn nứt công khai diễn ra sau đó trong hàng ngũ chính quyền mới.
Một
trong những tiếng nói ít ỏi từ nước ngoài phản đối cuộc hành hình là
của Eduard Shevardnadze, ngoại trưởng Liên Xô. Ông nói ông hiểu tình
hình khó khăn như thế nào, ‘nhưng việc kia làm cho người ta thấy đắng cả
miệng!’
Nhiều
người Rumani tin rằng chính Liên Xô đã kích động và tham gia vào cuộc
đảo chính lật đổ nhà độc tài. Chứng cớ, với họ, là sự có mặt của chính khách hậu trường Silviu
Brucan ở Moscow. Nhưng đó không thể xem là chứng cớ. Brucan thường
xuyên đến Moscow để gặp gỡ các mối quan hệ và nhờ người Nga can thiệp,
nhưng họ đều từ chối. Chính ông cũng phủ nhận một âm mưu như vậy. Ông
nói: “Tình hình ở Rumani đơn giản là không thể làm được gì. Chúng tôi
chỉ biết than phiền với nhau và mong ông ấy chết cho xong. Cả nước cũng
mong ông ấy chết cho xong. Nhưng chúng tôi đã không thể làm gì hết.”
[19]
Gorbachev
đã ra lệnh rằng Liên Xô sẽ không can thiệp trực tiếp vào Rumani, và
thực tế cho thấy lệnh của ông đã được tuân thủ. Một trong những cố vấn
đối ngoại chủ chốt của Gorbachev, ông Valentin Falin, cho biết: “Chúng
tôi biết sẽ có chuyện xảy ra ở đó. Chúng tôi biết sẽ có nạn nhân… đó là
điều gần như tất yếu sẽ xảy ra vì chế độ tại đây không chỉ thối nát mà
còn không khoan nhượng! Nhưng ngay cả như thế chúng tôi cũng không thể
dự đoán được vụ đổ máu như đã diễn ra. Rumani không còn đường thoát nào
khác. Vì vậy chúng tôi chỉ biết… quan sát mà thôi.” [20]
Nghịch lý siêu cường
Đoạn
kết ở Bucharest đã diễn ra với nhiều nghịch lý. Vào lúc các cuộc đụng
độ lên cao điểm, người Mỹ lo ngại rằng bạo động có thể lan rộng trên bán
đảo Balkans.
Lawrence
Eagleburger, Phụ tá Ngoại trưởng Mỹ, nói với Ngoại trưởng James Baker
rằng ông lo ngại người Rumani sẽ chĩa súng bắn vào sắc dân Hungary sinh
sống tại đây, và không biết liệu Liên Xô có can thiệp để ngăn ngừa việc
này không. Mỹ chủ trương chống Học thuyết Brezhnev [cho phép Liên Xô can
thiệp quân sự để bảo vệ CNXH tại Đông Âu] nhưng trong trường hợp này
thì không nên chống!.
Ngày
24 tháng 12, Ngoại trưởng Mỹ Baker chính thức đề nghị rằng: “Liên Xô có
lợi ích và khả năng để can thiệp, ngăn chặn đổ máu.” Ông nói Mỹ sẽ
không can thiệp “nếu Khối Warsaw cảm thấy cần thiết phải can thiệp” vào
Rumani. Thời điểm này là gần 10 năm kể từ ngày Liên Xô xua quân xâm lăng
Afghanistan, và lời đề nghị vừa kể của một Ngoại trưởng Mỹ quả thực là
một đề nghị rất bất thường.
Ngoại
trưởng Mỹ yêu cầu Đại sứ Mỹ tại Moscow, Jack Matlock, đánh tiếng với
lãnh đạo Xô Viết, nhưng các vị này chỉ cười đáp lại. Ngoại trưởng Liên
Xô Shevardnadze nói ý tưởng này không phải là nham hiểm, “mà là cực kỳ
ngu xuẩn”. Ông “dứt khoát chống lại” bất cứ sự can thiệp nào từ bên
ngoài. Cách mạng Rumani là “việc riêng của họ”. Bất cứ can thiệp nào của
Liên Xô cũng sẽ “biến Ceausescu thành ông thánh tử đạo”. Đó là chưa kể
mọi giao tranh đều chấm dứt sau khi ông bị hành quyết.
Cuối
ngày 24 tháng 12, Đại sứ Matlock đã có một cuộc họp không vui với một
quan chức của Shevardnadze, Ivan Aboimov, khi ông này lập đi lập lại
rằng Liên Xô sẽ không can thiệp. Ông cũng chỉ ra rằng người Mỹ, mới vài
tuần trước đó, đã đưa quân vào Panama để lật đổ nhà độc tài thất sủng
Manuel Noriega, người đã đối xử hung bạo với dân chúng và tham gia đường
dây buôn ma túy, nhập lậu heroin vào Mỹ. Aboinov nói: “Chúng tôi muốn
để dành kiểu can thiệp đó cho các vị! Các vị nhắc đến Học thuyết
Brezhnev phải không? Thế thì chúng tôi xin tặng các vị Học thuyết
Brezhnev làm quà!” [21]
Bản tiếng Việt 2013 © Phan Trinh & pro&contra
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ
1. Theo Scinteia, Bucharest, 22 tháng 11, 1989
2. Về Mục sư Laszlo Tokes, xem Tokes With God, for the People (NXB Crossways Books, New York, 1992); Petru Dugulescy, Ei mi-au, programat moartea (NXB Ecclesia, Timisoara, 1991); Marius Mioc, The Anticommunist Romanian Revolution of 1989 (NXB Editura Marineasa, Timisoara, 2002) và Siani-Davies, The Romanian Revolution of December 1989
3. Laszlo Tokes, tr. 148-57
4. Văn bản ghi chép một phần cuộc họp được xuất bản trên tờRomania Libera,
1 tháng 2, 1990. Văn bản ghi chép đầy đủ có thể tìm thấy tại Văn khố
Lịch sử Trung ương Quốc gia (National Central Historical Archive),
Bucharest, 70/89.2.33
5. Nhân vật thuật lại với tác giả, tại Bucharest, tháng 10, 2007
6.
Trích từ các cuộc trò chuyện giữa tác giả và người tham gia gồm
Gheorghe Peletrescym Andrei Oisteanu, Bucharest, tháng 12, 1989. Theo
lời thuật của Pael Campeanu, Marius Mioc, và Phóng viên Romulus Cristea
của tờ Romania Libera. Xem thêm: Simpson, The Darkness Crumbles, tr. 302-10. Ruxandra Cesereany, December 1989, Deconstructia unei revolutii (Polirom, Iasi, 2004) tr. 98-103
7. Pavel Campeanu, ‘The Revolt of the Romanians’, New York Review of Books, 1 tháng 2, 1990
8. Victor Stanculescu, ‘Nu Va Die Mila, au 2 miliarde lei in cont’Jurnalul National, Bucharest, 22 tháng 11, 1990
9. Nhân vật thuật lại với tác giả, tại Bucharest, tháng 10, 2007.
10. Xem Stanculescu ‘Nu Va Fie Mila’ và Siani-Davies, Romanian Revolution, Tr. 193.
11. Trả lời phỏng vấn trên tờ Romania Libera, 14 tháng 1, 1990
12. Trích từ Siani-Davies, Romanian Revolution, tr. 213
13.
Dinescu tại cuộc họp báo ở đài phát thanh, 26 tháng 12, 1989, và trong
tập tài liệu Cold War, LHCMA box 13, và Caramitru trích trong
Pryce-Jones, tr. 284
14. Phỏng vấn của Đài Châu Âu Tự do, 31 tháng 12, 1989, và Ion Iliescu, Revolutia Traita (Redactia, Bucharest, 1995), tr. 96
15. Trích trong Siani-Davies, Romanian Revolution, tr. 237
16. Phỏng vấn Lalutan trên Romania Libera, 14 tháng 1, 1990
17. Romania Libera, 14 tháng 1, 1990
18.
Brucan trả lời phỏng vấn của tác giả; Stanculescu, ‘Nu Va Fie Mila’;
Militaru, trả lời phỏng vấn của BBC với John Simpson, 12 tháng 1, 1990
19. Brucan trích từ Sinai-Davies, Romanian Revolution,
tr. 286, và từ S. Brucan The Wasted Generation: Memoirs of the Romanian
Journey from Capitalism to Socialism and Back (Westview, New York,
1993), tr. 293-6
20. GF, Falin báo cáo về Rumani
21. APRF Diplomaticecheski vestnik 1995-91, Moscow, tr. 74-9, doc 149
———
* Giáo hội có giám mục cai quản giáo hạt, mục sư cai quản giáo xứ, mục sư được kết hôn.[ND]
** Theo Kinh thánh Cựu ước & Tân ước, Lời Chúa cho Mọi người, Nhóm Phiên dịch các Giờ Kinh Phụng vụ, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2006, tr. 1458.[ND]
***Laszlo Tokes về sau trở thành giám mục và một trong những vị lãnh đạo Giáo hội Cải cách Hungary tại Rumani [Sebestyen]
No comments:
Post a Comment