LTG: Chúng tôi đang tổng hợp tài
liệu viết “Hồ Chí Minh, một gián điệp hoàn hảo”. Bỗng dưng bức xúc trước
lời gọi “Chúng Tôi Muốn Biết” về tình hình của đất nước, cho nên mạn
phép vào ngã rẽ đất nước đang điêu linh để viết loạt bài “Tiến trình đàm
phán bí mật Thành Đô 1990″, loan tải trên mạng Dân Làm Báo, hầu gửi đến
toàn thể công luận và đảng viên Cộng sản để cùng nhau biết về sự thật
sau lưng của những kẻ phản quốc, bán nước Việt Nam cho Trung Quốc. Nội
dung tài liệu này đã đối chiếu rất trung thực từ trong ngăn kéo của
BCT/TW đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam.
Tất nhiên, chúng tôi cũng đã đọc qua
tập tài liệu bản gốc của Ban Tuyên giáo TW phổ biến liên quan đến Hội
nghị bí mật Thành Đô 3-4/9/1990. Nhưng rất tiết tập tài liệu của quý Ban
Tuyên giáo TW đã công bố hoàn toàn không đúng sự thật và sai phạm trầm
trọng đến tinh thần Hội nghị bí mật Thành Đô. “Chúng tôi muốn biết” sự
thật, chứ không thể nào chấp nhận lừa bịp mãi mãi như thế này được! Nhân
đây chúng tôi loan tải một chương đầu về Hội nghị bí mật Thành Đô để
công luận tìm hiểu, nhận diện một “công thức” tà ngụy của đảng Cộng sản
Việt Nam, bán nước cho Trung Cộng.
Con đường nào dẫn đến đàm phán bí mật tại Thành Đô Tứ Xuyên 1990
Năm 1974 Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa
biển Đông của Việt Nam. 1979 Trung Quốc xua quân xâm lược biên giới Việt
Bắc-Đông Bắc Việt Nam. 1984 đánh chiếm 4 đỉnh núi cao nguyên biên giới
Việt Bắc, một dải biên thùy chiến lược quan trọng nhất của quốc phòng
Việt Nam tại hai tỉnh Lào Cai, Hà Giang giá trị về an ninh cho cả nước.
1988 đánh chiếm đảo Gạc Ma. 1990 đảng Cộng sản Việt Nam thông đồng với
Trung Quốc ngồi vào bàn đàm phán bí mật tại thủ phủ Thành Đô tỉnh Tứ
Xuyên, bằng luận điệu mị dân “bình thường hóa quan hệ Việt-Trung”, thay
vì hội nghị bí mật “Việt Cộng bán nước cho Trung Cộng”.
Đảng Cộng sản Việt Nam yêu cầu Bắc Kinh
mở cửa đàm phán bí mật Thành Đô vào ngày 3-4/9/1990. Quả nhiên thời điểm
này đánh dấu ngoặc lớn, lịch sử Việt Nam khởi đầu mất nước. Tại đây,
Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Đỗ Mười và cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam Phạm Văn Đồng. Phía Trung Quốc có Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ
tướng Lý Bằng. Trung Quốc nhấn mạnh, cuộc đàm phán này theo chỉ thị của
“quân sư” Đặng Tiểu Bình và phía Việt Nam có Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoàng Đích (黄的)
đứng trong chính trường tích cực đóng vai trò “Thủ lãnh” đàm phán bí
mật tại Thành Đô 1990 [1]. Hai ông, Giang Trạch Dân và Nguyễn Văn Linh
đồng ký vào “Kỷ yếu hội nghị đàm phán bí mật bình thường hóa quan hệ
song phương Việt Nam-Trung Quốc”. Tài liệu này được khẳng định sòng
phẳng luật chơi của hai kẻ bán người mua Việt Nam!
Từ khi có tên Việt Cộng quan hệ với Trung
Cộng, Việt Nam trải qua năm tháng điêu linh, thời gian đọng lại quá
nhiều rối bời, dấu vết lịch sử mỗi lúc thêm đen tối, chồng lên nhau khó
gỡ nỗi nhục làm tay sai để rồi thi hành mệnh lệnh phi lý, từ lúc Hồ Chí
Minh cho đến ngày nay chưa bao giờ xuất hiện bình minh giữa hai dân tộc
Việt-Hán.
Năm 1975, sau khi kết thúc chiến tranh,
nhà lãnh đạo Việt Nam Lê Duẩn không có thời gian để hàn gắn vết thương
đã gây ra bởi chiến tranh, do cơ bản từ khi có Hồ Chí Minh xây dựng chế
độ này. Nhất là bộ phận Cộng sản miền Nam sau 1975, bắt buộc phải xóa bỏ
để chuyển đổi lên Xã hội Chủ nghĩa.
Phải chăng Việt Nam nặng nợ với đế quốc
Cộng sản, nguyên do chính Hồ Chí Minh đã tựa lưng 100% vào viện trợ của
Trung Cộng và Liên Xô nhằm thực hiện giấc mơ cướp toàn lãnh thổ Việt Nam
và quyền bá chủ khu vực, nối lại ba quốc gia Cộng sản Việt Nam,
Campuchia, Lào thành thế lực “Liên Bang Đông Dương”.
Trong hướng đi ấy
Lê Duẩn đã sai tuyến đường sắt không trù liệu trước ngã rẽ, và đứng
trước quyết định của Trung Cộng đang hăm he tiêu diệt Việt Nam, bên cạnh
đó Lê Duẩn đẩy mạnh kiểm soát Lào và Campuchia, vô ý vận dụng vũ trang
có tính xâm lược. Hành động của Lê Duẩn đã dẫn nền kinh tế đến bờ vực
thẳm và hoàn toàn sụp đổ, trong khi ấy Việt Nam không có nội lực sản
xuất được một cây kim sợi chỉ, tiếp theo tình trạng cô lập của quốc tế
chưa từng có đối với lịch sử Việt Nam.
Tháng 7 năm 1986, Tổng Bí thư Lê Duẩn qua
đời. Trong tháng 12, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI diễn ra
trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá-lương-tiền, Nguyễn Văn
Linh được đắc cử Tổng Bí thư. Trước thập niên 1960-1975, Nguyễn Văn Linh
đã từng nhiều lần bí mật sang Trung Quốc, ông trao đổi quan điểm thân
thiện, trung thành với Trung Cộng, được Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ
tướng Chu đánh giá cao về trình độ vô sản, Mao hứa sẽ đi thăm Việt Nam
nếu Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí Thư. Trung Cộng tích cực ủng hộ Nguyễn
Văn Linh tạo sự nghiệp, nhưng sau đó thực hiện chính sách sai lầm từ
trong-ngoài nước đã nhiều lần bị gạt ra ngoài lề. Một lần nữa Nguyễn Văn
Linh khẩn khoản mong muốn xin Trung Cộng sửa sai lầm lỗi đã qua và hứa
thực hành đúng khẩu hiệu: “Tất cả các quốc gia là bạn bè”. [2]
Đối với Trung Cộng luôn tin rằng Việt Nam
có hai điều cấp bách cần phải thực hiện sớm, rút quân ra khỏi Campuchia
và cải thiện ban giao quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên Nguyễn Cơ Thạch
(阮基石) đem thân cản trở, là một thành viên trong BCT/TW đảng Cộng sản
Việt Nam, lãnh đạo Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, ông tiếp tục thực hiện và
hành động theo tư duy của Lê Duẩn truyền lại. Lúc này, Nguyễn Văn Linh
có thể can thiệp vào nội bộ, bất cứ mọi hoạt động của BCT/TW đảng, và
tránh được bất cứ mọi cản trở từ đâu đến làm thiệt hại chiến lược của
Trung Cộng mà đang tin cậy vào Nguyễn Văn Linh.
Khi đó Nguyễn Văn Linh
mới lên nắm quyền lãnh đạo đảng, gốc rễ chưa cắm sâu vào Bộ Chính Trị
gồm những ủy viên chính thức: Phạm Hùng, Võ Chí Công, Đỗ Mười, Võ Văn
Kiệt, Lê Đức Anh, Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Cơ Thạch, Đồng Sỹ Nguyên, Trần
Xuân Bách, Nguyễn Thanh Bình, Đoàn Khuê, Mai Chí Thọ và Đào Duy Tùng,
cho nên những đề xuất có tính quyết định và ý tưởng của ông vẫn không
được những thành viên trong Bộ Chính Trị đồng thuận và sự hỗ trợ không
đủ túc số theo qui định của đảng để thi hành một nghị quyết. Trong
trường hợp này Trung Cộng muốn sử dụng Nguyễn Văn Linh làm con rối nắm
lấy những mục tiêu chiến lược đã định trước của Trung Cộng qua Nguyễn
Văn Linh, tất nhiên nó khó khăn vô cùng bởi trong đảng Cộng sản Việt Nam
cũng có những người không đồng tình với Nguyễn Văn Linh, Trung Cộng đau
đầu nhưng phải đặt lại vấn đề giải pháp mới cho trường hợp Nguyễn Văn
Linh.
Trung Cộng thành hình giải pháp Nguyễn Văn Linh
Bí danh Khải Sơn (Kaysone Phomvihane),
tên Việt, Nguyễn Cai Song, tên thứ hai Nguyễn Trí Mưu, ông ta gặp Đặng
Tiểu Bình nói đến ba lần “yêu cầu giữ bí mật”.
Tháng 10 năm 1989. Tổng Bí thư nhân dân
cách mạng Lào kim Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Khải Sơn (Kay Hill) tiếp
xúc với Phong Uy Hán (Feng Wei Han) Vụ trưởng Vụ Trung Quốc kiêm Bộ
Ngoại giao Châu Á-Ấn Độ trong buổi tham dự tiếp tân. Theo kế hoạch đã
được phê duyệt của Thủ tướng Lý Bằng sẽ chủ trì cuộc họp, Giang Trạch
Dân chính thức tham dự chiêu đãi buổi tối.
Khải Sơn (Kay Hill) chân thành và hy vọng
muốn gặp riêng Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc báo tin rằng, Đặng Tiểu Bình
tuổi đã cao, không gặp bất kỳ khách nào của nước ngoài, xin được hiểu
biết điều này. Tuy nhiên, Khải Sơn nhấn mạnh “xin Đặng Tiểu Bình, nhớ
lấy lời tôi rất bí mật”, Khải Sơn đã nói đến ba lần. Trong trường hợp
này, sau nhiều ngày nghiên cứu và phối hợp, cuối cùng đã đồng ý thực
hiện một cuộc họp ngắn Khải Sơn với Đặng Tiểu Bình. Bộ Ngoại giao Trung
Quốc không chuẩn bị chi tiết tham chiếu cho cuộc trò chuyện. Thật bất
ngờ, hai nhà lãnh đạo gặp nhau trao đổi 40 phút, chỉ nói một vấn đề quan
trọng. Khải Sơn chân thành, thừa nhận rằng trong mười năm (10) qua quan
hệ Lào với Trung Quốc trong tình trạng bất thường, chịu sự “ảnh hưởng
bên ngoài” (VN), chuyến thăm này Khải Sơn muốn đến gần Trung Quốc hơn
Việt Nam, ông đã đánh dấu bền vững qua sự bình thường hóa quan hệ
Lào-Trung Quốc. Trong khi đó, Khải Sơn (Kay Hill) cũng chuyển tải những
lời chào thân mật đến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Đặng Tiểu Bình, cho
biết “tình hình ở Việt Nam đã có một thái độ hiểu biết mới, đối với
Trung Quốc cũng đã được thay đổi nhiều, Nguyễn Văn Linh mong muốn tôi
mời ông ấy sang thăm Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình cũng yêu cầu Khải Sơn
hiểu thêm về Nguyễn Cơ Thạch”.
Đặng Tiểu Bình nói tiếp: “Tôi đã biết,
đồng chí Nguyễn Văn Linh, ông ấy linh hoạt, làm việc hợp lý, có khả
năng, Hồ Chí Minh là người thầy trong lòng của Nguyễn Văn Linh và tôi hy
vọng ông ấy hành động dứt khoát với Campuchia, vấn đề ở đây là “con dao
cắt đến đâu”. Bây giờ tuổi tôi đã lớn, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng sau
khi nghỉ hưu hoặc đã nghỉ hưu, trước khi vấn đề Campuchia có thể được
giải quyết, quan hệ Trung-Việt trở lại bình thường, là một phần tâm trí
của tôi”. Đặng Tiểu Bình đặc biệt đẩy ứng lực về phía Việt Nam, ông muốn
lấy Campuchia làm sách lược, phải triệt để rút quân. Ông yêu cầu Khải
Sơn sẽ truyền đạt những quan điểm này đến Nguyễn Cơ Thạch. Ngoài ra,
Đặng Tiểu Bình còn cho biết, mọi sự kiện từ ý nghĩa mà ra: “Nguyễn Cơ
Thạch rất thích chơi trò tiểu động tác giả nhân ái” (nguyễn Cơ Thạch giá
cá nhân ái cảo tiểu động tác).
Vào thời điểm đó, mặc dù rất khó để nói
lên câu này, nhưng trọng lượng lời nói của Đặng Tiểu Bình rất nặng không
thể xem thường sự hiểu biết của người bình thường. Sự thực trong câu
này chỉ để một Nguyễn Văn Linh tự ý thức hành động. Trước mắt Trung Quốc
đã mất bình tĩnh nơi Nguyễn Cơ Thạch, do vấn đề cản trở giải quyết
Campuchia, Trung Quốc không thể mong đợi và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch cho
xúc tiến bình thường hóa quan hệ Trung Quốc-Việt Nam.
Khải Sơn trên đường về nước, dừng chân
giữa biên giới Việt-Lào tại A Pa Chải, gần Điện Biên. Theo cách suy nghĩ
của Khải Sơn, âm thấm truyền đạt thông điệp của Đặng Tiểu Bình gửi đến
cho Việt Nam, hy vọng Nguyễn Văn Linh kịp thời nghiêm túc, và ông cảm
nhận được kinh nghiệm cá nhân từ Nguyễn Cơ Thạch làm “tiểu động tác”.
Khải Sơn nhận ra rằng để cải thiện mối quan hệ, trước tiên phải giải
quyết vấn đề giữa Việt Nam-Campuchia, ở đây làm thế nào để giải quyết
vấn đề Campuchia, Việt Nam phải tham khảo ý kiến với Trung Quốc. Ông
cũng nhận ra rằng, Đặng Tiểu Bình vượt qua quyền song phương của hai
quốc gia, nhưng không đưa ra một lời mời nào để phía Việt Nam thăm viếng
Trung Quốc. Trong trường hợp này, làm thế nào có thể đạt được hy vọng,
tất nhiên họ Đặng cũng lo lắng để giải quyết vấn đề Việt Nam.
Lê Đức Anh đưa cướp vào nhà Việt Nam.
Trung Quốc cho xuất hiện bí danh Dã Hảo
(Ye) để giải quyết nhiều vấn đề lớn tại Việt Nam. Trong suy nghĩ Nguyễn
Văn Linh muốn dứt khoát Campuchia trước khi nghỉ hưu, ông nhờ Dã Hảo
tham khảo ý kiến với các nhà lãnh đạo Trung Quốc về quan hệ Việt
Nam-Campuchia sẽ được giải quyết.
Trong cuộc họp BCT/TW, Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao Nguyễn Cơ Thạch và Nguyễn Văn Linh tranh luận gay gắt, hai người
hoàn toàn khác nhau cách tìm phương hướng cho giải pháp xử lý nội vụ
Campuchia, và Nguyễn Cơ Thạch vẫn luận điệu cũ chống bình thường hóa
Việt Nam-Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh có ý định sắp xếp cùng đi với
Nguyễn Cơ Thạch sang Trung Quốc, tạo điều kiện cho Nguyễn Cơ Thạch mặt
đối mặt lý giải “giảng liễu ta Thập Ma” (讲了些什么), có lẽ thời gian này vẫn
còn một tia hy vọng cho Trung Quốc-Việt Nam, một cơ hội để thay đổi
thực tế. Nguyễn Văn Linh không đặt hy vọng hay lời sâu xa tuyệt đối nào
với Nguyễn Cơ Thạch. Tất nhiên, có sự hiện diện của Nguyễn Cơ Thạch cũng
tạo ra khả năng con dao hai lưỡi về mặt ngoại giao.
Những nhân vật bí ẩn xuất hiện tại Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, trao đổi bí mật
Buổi sáng ngày 2 tháng 6 năm 1990. Một
cán bộ trên tay thẻ Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, bí danh Hoàng
Đích (黄的), đến Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội. Ông nói với nhân viên
tiếp tân, xin gặp ông Đại sứ Trương Đức Duy và được đồng ý cho ông ta
gặp.
Ngày 5 tháng 6 năm 1990. Kẻ phản quốc,
bán nước Việt Nam đứng trong chính trường đóng vai trò tuyệt hảo, giật
dây đưa đến mật nghị Thành Đô, có bí danh Hoàng Đích (黄的-Lê Đức Anh), Bộ
Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam, cùng với Đại sứ Trung Quốc Trương Đức
Duy (Zhang Dewei) thư ký riêng của “Bác Hồ”, đã có quá trình hoạt động
bí mật cho MSS, thảo luận bí mật, mưu đồ tiến hành đưa đất nước Việt Nam
vào khối chư hầu Trung Quốc!
Trương Đức Duy nói thông thạo tiếng Việt,
vì vậy Hoàng Đích an tâm, hai ông trò chuyện nội dung bí mật. Hoàng
Đích (黄的) cho biết ông Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đang ở gần nhà (tiếng
lóng hẹn gặp Nguyễn Văn Linh). Vào buổi sáng ngày 3 tháng 6, Nguyễn Văn
Linh cho xe đến đón Hoàng Đích về nhà, sau buổi cơm trưa khoảng một
giờ, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh muốn viếng thăm Đại sứ Trương Đức Duy.
Ngày sau Hoàng Đích (黄的) trở lại Đại sứ
quán Trung Quốc, nhưng bị chặn lại từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, cho biết
không có nhu cầu. Lúc này Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh còn ngồi trên xe
để xem tình hình, nhờ vậy biết thêm thân thế Hoàng Đích, tay ông đưa ra
một danh thiếp bí mật, một lúc Trương Đức Duy khẩn cấp xuất hiện và nhận
tín hiệu, nói rất nhỏ để Hoàng Đích đủ nghe và giải thích rằng cuộc đối
thoại giữa tôi và Nguyễn Văn Linh sẽ được ghi âm lại, sau đó ban bí thư
Đại sứ quán kiểm tra cho chính xác. Trương Đức Duy cho biết thêm: “Vào
tháng 10 năm ngoái đồng chí Khải Sơn (凯山) có gửi lời thăm Hoàng Đích và
có chúc sức khỏe đồng chí Đặng Tiểu Bình và muốn thấy sự bình thường hóa
quan hệ Trung-Việt, tôi rất hoan nghênh. Tôi cũng chân thành và hy vọng
rằng chúng ta sẽ tổ chức được những cuộc trao đổi giữa các cấp lãnh đạo
Trung ương Việt Nam-Trung Quốc, chúng ta tiếp tục phối hợp, có thể
những phiên họp tiến hành trong nay mai, mối quan hệ lâu dài Trung-Việt
Nam qua chuẩn bị của đôi ta, do đó từ nay, sắp tới phải trải qua vài
giai đoạn phức tạp trong đàm phán quan hệ song phương.
Trương Đức Duy đề nghị:
− Tốt hơn hết và đẹp cho cả đôi bên, hẹn
gặp tại BCT/TW Bộ Quốc phòng của đồng chí Hoàng Đích (黄的). Hoàng Đích
hân hoan, đồng ý bố trí bí mật cho Trương Đức Duy và Nguyễn Văn Linh gặp
nhau vào ngày 05 tháng 6 năm 1990.
Ngày 05 tháng 6 năm 1990, Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức
Duy (Zhang Dewei), trong không khí bí mật tại Bộ Quốc Phòng Việt Nam.
[3]
Ngày 05 tháng 6 năm 1990, Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trung Quốc bày tỏ tình bạn trung thành.
Đúng hẹn lại đến, dưới nỗ lực tối đa của
Bộ Quốc Phòng Việt Nam, ông Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trung
Quốc tại Việt Nam Trương Đức Duy trao đổi trong không khí bí mật.
Lời ngoại giao đầu tiên của Nguyễn Văn Linh:
− Chúc bạn nhiều sức khỏe, thành công
trên con đường ngoại giao đem những thắng lợi về cho Trung Quốc, tôi xin
kính chuyển lời chào đến đồng chí Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý
Bằng và các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh còn cho
biết, trong chiến tranh Việt Nam-Hoa Kỳ, ông đã đến Trung Quốc nhiều
lần, từng yết kiến Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai, Đặng
Tiểu Bình và các nhà lãnh đạo tương tự. Chủ tịch Mao Trạch Đông và
Thủ
tướng Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình và Hồ Cẩm Đào là đồng nghiệp. Trương
Đức Duy nói vào trọng điểm:
− Hôm nay, tôi muốn đưa ra điều này, bởi
phải tin tưởng tôi rất xứng đáng làm một công dân Việt Nam. Từ lâu tôi
canh cánh trong lòng, tự hỏi tại sao Campuchia cứ trở ngại, tranh cãi
lâu không giải quyết được, có phải chăng Nguyễn Cơ Thạch can thiệp làm
cho mọi thứ chạy ra khỏi con đường sắt đàm phán, tôi nghĩ rằng bây giờ
có một nhu cầu cho hai nhà lãnh đạo trực tiếp thảo luận và loại bỏ tất
cả những hiểu lầm, nhân dịp loại trừ Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam
Nguyễn Cơ Thạch trước đã, sau đó tiến hành bảo vệ xã hội chủ nghĩa và
khôi phục lại niềm hy vọng mãnh liệt của những nhà lãnh đạo Việt
Nam-Trung Quốc, tất nhiên đây là khởi hành cho các cuộc họp tình bạn đơn
thuần. Campuchia phải được giải quyết một cách nhanh chóng theo quan
điểm và ý muốn của các đồng chí Bắc Kinh, tôi đề nghị đồng chí gửi lời
mời gọi là sơ giao “nội bộ”, tôi sẽ bí mật về Trung Quốc. Để báo tin
cuộc thảo luận hôm nay trên cơ sở vững chắc, tôi cam đoan sẽ có hiệu
quả, thuyết phục được tập thể BCT/TW Đảng Trung Quốc.
Nguyễn Văn Linh cho biết tiếp: Đã từng
học tư tưởng Mao tại Trung Quốc. Trong chiến tranh cách mạng và nhà tù
của địch, tôi luôn luôn học tập và nghiên cứu thảo luận về các cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ, như những bài viết của Chủ tịch Mao, đem đến lợi
ích cho Việt Nam chống Pháp, và giai đoạn chống Mỹ. Việt Nam đã được sự
giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong tất cả các khía cạnh, thậm chí cả
cây kim sợi chỉ, dưa chua, bánh quy, cao lương, đường sữa, vũ khí, quân
binh, quân dụng, tài chính v.v… tất cả viện trợ này từ Trung Quốc, và
hướng dẫn tư tưởng lẫn chiến lược, thậm chí nhân dân Trung Quốc cũng đã
giúp đỡ rất nhiều cho Việt Nam, chẳng hạn như cuộc chiến tranh nhân dân
Việt Nam, chúng tôi luôn luôn học tập và tìm hiểu những suy nghĩ về
chiến tranh nhân dân dưới sự chỉ đạo của Mao Chủ tịch, chúng tôi cũng đã
áp dụng vào thực tế tại Việt Nam. Có thể nói, không có sự hỗ trợ của
Trung Quốc cho Việt Nam là không thể đánh bại Mỹ.
Nguyễn Văn Linh trình bày theo quan điểm
của mình, cho rằng sau khi thống nhất quốc gia, sẽ tập trung và gắn bó
trong công cuộc xây dựng kinh tế, nhưng sự xuất hiện của những khó khăn
bất ngờ và phức tạp do vụ Campuchia, đưa đến Việt Nam hơn mười năm (10)
chiến tranh vất vả, cuộc sống của nhân dân khó khăn hơn trước, đặc biệt
mối quan hệ với thế giới đưa đến Việt Nam bế quan tỏa cảng. Có thể nói,
Việt Nam-Trung Quốc làm một số điều xấu như độc trị, đàn áp nguyện vọng
của nhân dân, tiếng nói nhân quyền và quyền sống của con người hầu như
vắng bặt. Trái lại Nguyễn Văn Linh luôn luôn ủng hộ những sai lầm của
Trung Quốc cho đến nay không cách nào sửa chữa được. Khía cạnh độc trị
tại Việt Nam, cuối cùng đưa đến van lạy, xin Trung Quốc vui lòng hiểu
nhau và quên đi quá khứ. Hiện nay quan trọng hơn cả là mối quan hệ song
phương lấy lòng tin cải thiện hiện tại để tiến đến tương lai làm một chư
hầu tốt. Nguyễn Văn Linh thừa biết tình hình quốc tế đang trải qua
những thay đổi mạnh mẽ, khi đó Việt Nam muốn thay đổi, tiến lên phát
triển không thể dễ dàng của tình hình ở Đông Âu, đang gặp rất nhiều phức
tạp, nhất là tình hình Liên Xô đang trên đà quá ảm đạm”.
Phương Tây cũng đã cố gắng can thiệp,
muốn thực hiện diễn biến hòa bình, trong chiều hướng “nhất cử phá hủy”
phần thế giới ngừng lại giấc mơ chủ nghĩa xã hội. Người ta đã dự liệu
rằng “Liên Xô là pháo đài cuối cùng của hòa bình trên thế giới, nhưng
bây giờ pháo đài này bị lung lay và nguy cơ phá sản”. Nguyễn Văn Linh
không am tường cục diện quốc tế ngày nay đã thay đổi nhiều, vẫn cho rằng
“Trung Quốc là một nước lớn, có thể cho Việt Nam hưởng thụ một bữa tiệc
lớn, và chắc chắn vươn tới ngọn cờ hồng chủ nghĩa xã hội, vẫn cho rằng
tình hình hiện nay, vị trí, vai trò đặc biệt của Trung Quốc được xem
quan trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam cần Trung Cộng đứng trước biểu ngữ xã
hội chủ nghĩa và Việt Nam-Trung Quốc là hai nước láng giềng anh em xã
hội chủ nghĩa. Việt Nam sẽ có một bữa tiệc nhỏ do Trung Quốc viện trợ.
Việt Nam đã thực sự sống nhờ viện trợ của Trung Quốc, cho nên Nguyễn Văn
Linh háo hức cho biết Trung Quốc là trái tim của mình.
Nguyễn Văn Linh còn cho biết thêm:
Campuchia luôn luôn là một giải pháp hòa bình cho tương lai của
Campuchia không thể thân Phương Tây, không cho Phương Tây và Liên Hợp
Quốc can thiệp vào. Hy vọng kết quả, Việt Nam-Campuchia có thể hợp tác,
thúc đẩy nội bộ Pol Pot, Ieng Sary và Heng Samrin, do Thủ tướng Hun Sen
đứng ra làm hòa giải, theo hướng của các bên (Việt-Trung), hiện nay Việt
Nam đang tham vấn cho Campuchia có thể tiến hành theo hướng loại bỏ một
vài địch thủ. Khmer Đỏ muốn cai trị, ý tưởng này không thực tế.
Về phía Việt Nam, Đại sứ Trung Quốc
Trương Đức Duy ngay lập tức tham khảo với Nguyễn Văn Linh, trình bày chi
tiết những báo cáo của Bắc Kinh, cùng lúc đưa ra kế hoạch tương lai cho
Việt Nam. Trương Đức Duy cho biết: Hiện nay Trung Quốc đã tiến hành
những cuộc nghiên cứu cẩn thận, sẽ sớm được Bắc Kinh hồi đáp, tuy nhiên
Việt Nam càng sớm càng tốt hãy rút khỏi Campuchia, tất nhiên Việt Nam
đứng trên một thế tiến thoái lưỡng nan muốn khai tử phe đối lập Pol Pot
là một vấn đề khó bởi Trung Quốc là cha đẻ của Pol Pot, cụ thể chế độ
tại Phnom Penh, các lực lượng kháng chiến ba thành phần nhất định ngồi
lại trong tình hình chung, sau đó từng bước hai nhà lãnh đạo Việt
Nam-Trung Quốc sắp xếp lại cho hợp lý trên bàn cờ Campuchia do ngoại
bang làm chủ.
Nói cách khác, Trung Quốc vẫn chưa sẵn
sàng để nhanh chóng đáp ứng với những yêu cầu của các nhà lãnh đạo Việt
Nam. Trong trường hợp này, làm thế nào để phá vỡ bế tắc và đạt được một
hội nghị cấp cao Việt Nam-Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh đang vật lộn với
vấn đề Campuchia, ông cho biết. Ông muốn nhìn thấy các nhà lãnh đạo hàng
đầu của Trung Quốc thỏa thuận rộng rãi, chuyện anh em (Việt-Trung) có
thể dùng đến nghi thức ngoại giao xử lý. Theo kinh nghiệm lịch sử cho
thấy đàm phán trực tiếp giữa các nhà lãnh đạo cao nhất, hiểu biết lẫn
nhau dễ dàng đưa đến thỏa thuận.
Nguyễn Văn Linh hỏi tiếp, Trương Đức Duy chú ý từng lời:
− Tôi muốn biết điểm khởi đầu chuyến
viếng thăm “nội bộ” có nên lắng nghe phát biểu cá nhân của quý đồng chí
Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý Bằng và các đồng chí khác hay không,
riêng tôi cũng muốn các nhà lãnh đạo Trung Quốc lắng nghe những quan
điểm để hiểu biết về cá nhân của tôi. Cả hai bên cần thành thực giải đáp
một số câu hỏi, đầu tiên là để tìm ra các vấn đề Campuchia, giải pháp
nào tốt nhất, đối với tôi, có một số khó khăn, nhưng tôi tự tin. Nếu các
đồng chí Trung Quốc tin tưởng nơi tôi có khả năng hỗ trợ đàm phán, tôi
sẽ cho Hoàng Đích lên đường đến Bắc Kinh thăm viếng tiền trạm cho những
đàm phán sau này, tôi đã hết lòng nuôi dưỡng tình bạn tốt đẹp giữa Việt
Nam-Trung Quốc, một cách khác bảo vệ lợi ích chung của cách mạng và xã
hội chủ nghĩa, từ đó càng có nhiều thuận lợi và đều kiện để đạt được mục
đích của quý đồng chí Bắc Kinh.
Trương Đức Duy đề cập đến cố vấn Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng, cũng được mời
tham dự mật nghị. Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Hoàng Đích đồng ý. Trương
Đức Duy giải thích thêm, ông hiểu hết ý của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
hiện nay lo ngại Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch làm vật cản
trở, bởi ông ấy chỉ muốn vấn đề khôi phục lại chủ quyền trên quan hệ
song phương, nếu cần chúng ta chuẩn bị chặn lại vào lúc này, đừng để lâu
sẽ thiệt thòi đến quá trình đàm phán, tôi đề nghị trừ khử Nguyễn Cơ
Thạch, bởi vừa qua ông Bộ trưởng Ngoại giao trực tiếp phản đối diễn tiến
hai bên đàm phán, có thể đặt ra phương sách thực hiện Bộ Ngoại giao vào
lúc này!
Sau khi đôi bên thảo luận, chuẩn bị tạm biệt, Hoàng Đích nói:
− Tôi mong muốn áp dụng đề nghị của Đại sứ Trương Đức Duy.
Ngay lập tức Đại sứ Trương Đức Duy đáp:
− Tôi nhất định truyền đạt kết quả trao
đổi hôm nay lên Tổng Bí thư Giang Trạch Dân. Nhưng có một vấn đề cần xem
xét lại, nhân viên của Bộ Quốc Phòng hoặc người nào đó lỡ miệng tiết lộ
quan điểm của chúng ta thì bạn Hoàng Đích phải bảo đảm tuyệt đối bí mật
cuộc đối thoại hôm nay.
Rõ ràng, Nguyễn Văn Linh đang thực hiện
giải quyết rút quân ra khỏi Campuchia trước khi dẫn đến sự phản đối
trong nội bộ đảng Cộng sản và sau đó sắp xếp một cuộc gặp gỡ giữa các
nhà lãnh đạo để nói lên quan điểm của mình muốn đàn áp những đồng nghiệp
trong BCT/TW đảng. Trường hợp này đã đề xuất quan điểm cùng lúc với
nhiều quốc gia có Đại sứ quán tại Hà Nội, có thể tránh được hiểu lầm là
có người phản đối. Để làm điều này, Đại sứ Trương Đức Duy triệu tập Đỗ
Mười cùng thảo luận với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh lấy quyết định đối
phó thành phần quá khích trong đảng. Sau khi thảo luận, Đại sứ Trương
Đức Duy và Đỗ Mười đồng ý không thể để tiết lộ ra ngoài, nhất là đôi mắt
của các đại sứ quán công tác tại Trung Quốc và Việt Nam, trách nhiệm
này Ủy ban Hội nghị Thành Đô cẩn thận và giữ bí mật dù có ý kiến nhỏ hay
câu hỏi nào. Trung Quốc hứa bảo đảm, chắc chắn và chính xác. Nhưng
bây giờ có tình hình mới, Nguyễn Văn Linh đã quyết định bỏ qua nghi thức
nhà lãnh đạo thẳng thắn thảo luận với Nguyễn Cơ Thạch những vấn đề quan
trọng. Đại sứ quán Trung Quốc Trương Đức Duy dựa trên tình hình mới,
khuyến cáo mạnh mẽ yêu cầu nội bộ BCT/TW của Nguyễn Văn Linh tích cực
xem xét hồ sơ Campuchia và dứt khoát loại trừ mọi cản trở.
Đêm 19 tháng 8, Đại sứ quán Trung Quốc
nhận được phúc đáp của BCT/TW Trung Quốc, chấp nhận đề nghị của Trương
Đức Duy, ông liền báo tin cho những người đáng tin cậy nhất xung quanh
Nguyễn Văn Linh, cá nhân Nguyễn Cơ Thạch đã bị cô lập, không còn nguồn
tin (trễ?) nên khó hiểu ý định thực sự của Nguyễn Văn Linh. Không nghi
ngờ gì nữa, Đại sứ quán Trung Quốc là nơi thảo kế hoạch cho lộ trình
chuyến bay cho BCT/TW Nguyễn Văn Linh đi Thành Đô. Trương Đức Duy có
nhiệm vụ trung gian quan trọng gọi là công tác “quan hệ” Việt Nam-Trung
Quốc, khó ai tưởng tượng nhân vật này sống tại Việt Nam đã trên 30 năm,
là một gián điệp MSS giàu kinh nghiệm, hiểu biết cặn kẽ tình hình Việt
Nam.
Lúc 8 giờ sáng, ngày 20, Đại sứ Trương
Đức Duy tổ chức một cuộc họp mở rộng chi bộ đảng để nghiên cứu làm thế
nào thực hiện chỉ đạo của BCT/TW đảng Trung Quốc. Có những phát biểu sâu
xa và cung cấp các sự kiện chính trị cho buổi họp: Chúng ta đều biết,
năm 1980, Việt Nam luôn coi Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm
nhất”, những phương tiện truyền thông nào là đài truyền hình, phát
thanh, báo chí phổ biến mọi nội dung chống Trung Quốc, và đưa ra một
loạt chiêu bài có tính ngoại giao, bất kỳ quan chức Việt Nam đều tránh
né khi tiếp xúc với các nhà ngoại giao Trung Quốc. Trong trường hợp này,
không cần phải nói không thể tin tưởng hết những người xung quanh
Nguyễn Văn Linh, ngay cả những người đáng tin cậy cũng không biết họ là
ai. Chúng tôi luôn nghĩ một điều nên tìm manh mối từng người nếu cần
chúng ta thực hiện. Đó là ngày 06 tháng 6, cụ thể Nguyễn Văn Linh, Đại
sứ Trương Đức Duy đã gặp trong bí mật, ngày hôm sau các thành viên trong
BCT/TW Việt Nam, đem ra thảo luận, chính Bộ trưởng Quốc phòng tướng Lê
Đức Anh đã có cuộc họp riêng biệt cùng Đại sứ Trương Đức Duy và tiệc
chiêu đãi có giải trí cũng không còn bí mật. Ngoài việc Lê Đức Anh tiếp
tục thực hiện 5 lần hội thảo trong Bộ Quốc Phòng, theo giải thích chiều
hướng của tinh thần Nguyễn Văn Linh, tất nhiên ca ngợi hết lời tốt đẹp
cho Trung Quốc. Vì vậy, Đại sứ Trương Đức Duy quyết định cho phép Bộ
Quốc phòng Lê Đức Anh giới thiệu lên kênh truyền hình Việt Nam. Đại tá
Triệu Duệ (Zhao Rui) tùy viên quân sự tại Đại sứ quán cố gắng chỉ thị
hành động bảo vệ đại sứ, những việc làm đó rất táo bạo, chưa từng thấy
trong ngành ngoại giao.
Lúc 8 giờ ngày 21, lần này, chắc chắn
tướng Lê Đức Anh sẽ rất vui vì Đại sứ Trương Đức Duy di chuyển bằng xe
hơi không treo cờ của Đại sứ quán Trung Quốc và Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Lê Đức Anh, Trương Đức Duy gặp nhau bắt tay thân thiện, ôm nhiều lần,
ông nói rằng, muốn nhìn thấy kết quả những gì trong thời gian sinh hoạt
bí mật với Đại sứ Duy, đến nay ông được chào đón nồng nhiệt với tình bạn
thân mật, Đại sứ Trương Đức Duy gợi ý:
− Trước đây Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
có gặp anh Hoàng Nhật Tân (Nhà sử học Wong Yat) nói chuyện gì đó, rất
ngắn, nay tôi muốn đích thân nghe tướng Lê Đức Anh cho biết thái độ của
Tổng Bí thư đối với Hoàng Nhật Tân, và hy vọng tướng Lê Đức Anh giúp đỡ
tôi liên lạc anh ấy.
Lê Đức Anh chưa kịp trả lời, có thông tin
cấp bách của Đại tá Triệu Duệ (Zhao Rui): Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
sẽ đến Bộ Quốc phòng để gặp Đại sứ Trương Đức Duy tại phòng họp đúng 7
giờ 30 buổi tối ngày 22. Bí mật hai bên không dùng tài xế riêng, đề nghị
Đại sứ Trương Đức Duy chuyển sang một chiếc xe khác, không treo cờ.
Giám đốc Văn phòng Ngoại giao Ngô Xuân Vinh cho biết vấn đề này, ông vừa
nhận tần số của một người không cho biết địa chỉ. Triệu Vũ Quan (Zhao
Wuguan), vừa trở về từ trung tâm tình báo MSS tại Hà Nội, lập tức thực
hiện một báo cáo trước khi Trương Đức Duy đi đến Bộ Quốc phòng Việt Nam:
− Bộ Quốc phòng Việt Nam vừa gửi đi một
giấy mời hai vợ chồng Đại sứ Malaysia, tham dự buổi chiêu đãi tối nay,
Đại sứ Trương Đức Duy không muốn cặp vợ chồng ông này. Để không thô lỗ,
mà còn đảm bảo đáp ứng kịp thời công việc của Nguyễn Văn Linh, Phu nhân
Đại sứ giả vờ bệnh, như vậy vẫn gặp được Nguyễn Văn Linh tại một nơi bí
mật được phối trí trong Bộ Quốc Phòng Việt Nam v.v… Trương Đức Dy đáp:
Tuy nhiên không thể tránh Đại sứ Malaysia cứ đi, tham dự bình thường.
Đêm đó, hai vợ chồng Đại sứ quán Malaysia
đến đúng giờ, đi bộ vào phòng khách, họ nhìn thấy Đại sứ Trương Đức Duy
bơ phờ bởi cô tiếp viên bên cạnh phục vụ quá chu đáo, đó chỉ là một bản
kịch để tranh né kẻ đối diện, sau này được biết tên tình báo MSS Trương
Đức Duy cướp hồ sơ mật của Malaysia bị phát hiện.
Trương Đức Duy chào yếu ớt: “Chào mừng
hai bạn mới đến, tôi xin chúc sức khỏe bình an”. Nói tiếp: Vợ tôi bị
bệnh Meniere lại tái phát, đau đầu, buồn nôn, cho nên không thể ở đây
lâu, có thể bạn ngồi tán ngẫu với Lý Tiên Sanh (Lee) giám đốc chính trị
Đại sứ quán Trung Quốc. Đại sứ Malaysia nghe qua bệnh tình của phu nhân
Trương Đức Duy rất xúc động, ông nói: “Kính thưa Đại sứ, tôi cũng thấy
như thế, phu nhân của ngài thể chất không được tốt, hy vọng có dịp sẽ
gặp gỡ lại, thực sự xin lỗi, chúng tôi không biết phu nhân của ngài
bệnh, tôi đề nghị nên về để nghỉ ngơi, và tôi chúc bà phục hồi sức khỏe
sớm.
Nhờ đôi câu nói ngoại giao này của Đại sứ
Malaysia giúp Trương Đức Duy nẩy sinh ý, liền đứng dậy và bắt tay tỏ ý
thân thiện xin tạm biệt. Đại sứ Trương Đức Duy ra khỏi phòng, ông Đại sứ
Malaysia thấy đôi chân của phu nhân Trương Đức Duy sải bước như bay,
cũng trong lúc ấy có một xe hơi đen bóng loáng thương hiệu Toyota đi
thẳng vào sân Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Ngày 12 tháng 5 năm 1993. Cố vấn Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng gặp Đại sứ
quán Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei), trong không khí bí mật tại
Bộ Quốc Phòng Việt Nam.
Nguyễn Văn Linh bí mật gặp gỡ với Đại sứ Trương Đức Duy
Đại sứ Trương Đức Duy vừa ra khỏi phòng
khánh tiết của Bộ Quốc phòng Việt Nam, gặp xe của Nguyễn Văn Linh chạy
vào, Trương Đức Duy đi theo lối xe Toyota đến thẳng phòng làm việc của
tướng Lê Đức Anh, lần gặp này Trương Đức Duy hỏi thăm Hoàng Nhật Tân.
Lần đầu tiên Nguyễn Văn Linh tiết lộ: Chính tôi đã chăm sóc rất chu đáo
con trai của Hoàng Văn Hoan là Hoàng Nhật Tân. Đại sứ Trương Đức Duy
không ngần ngại nói. Tôi cũng tiếp nhận được tin nhắn, nội dung rất
chính xác về Hoàng Nhật Tân sống tốt cũng nhờ ngài.
Nguyễn Văn Linh nói vào trọng tâm mục đích.
− Đại sứ Trương Đức Duy có nên tin điều
này không, Việt Nam luôn luôn duy trì quan hệ tốt với Trung Quốc. Tất
nhiên cũng có những chuyện hiểu lầm vào năm 1976, có 10 tên Việt không
đồng ý tự suy thoái niềm tin trong mối quan hệ giữa Việt Nam-Trung Quốc
và một số hoạt động bị cáo buộc là “hữu khuynh”, rồi đào thoát qua Trung
Quốc sống [4].
Đến năm 1982 nhờ chủ trương tốt ở giai
đoạn này nên tự nó tồn tại, và một loạt các thành phần kinh tế quốc
doanh không đồng ý với chính sách chống Trung Quốc đã bị đẩy ra khỏi Bộ
Chính trị. Vào thời điểm đó, Đại sứ làm sao hiểu hết những lý do của nó,
mặt khác chúng tôi đã có thái độ tốt với Trung Quốc. Nếu “Bác Hồ” còn
sống, sẽ không bao giờ làm mọi điều như vậy. (đây là lối nói mượn Hồ làm
bình phong, bất cứ lãnh đạo đảng đều như vậy để chạy tội hay hết đường
binh). Nguyễn Văn Linh cho biết. “Trung Quốc thực hiện chính sách Hải
ngoại đối với Việt Nam là sai, bởi cách mạng Việt Nam đã có những đóng
góp giá trị nhiều nhất cho Trung Quốc. Sau khi Việt Nam chiến thắng
1975, Trung Quốc phân biệt đối xử đẩy chúng tôi vào tuyệt lộ như vậy có
quá ngoan cố không”. Sau năm 1986, Tôi trở thành tổng thư ký của Việt
Nam, tôi quyết tâm vượt qua những trở ngại khác nhau, và dần dần sửa
chữa những sai lầm của quá khứ, để khôi phục lại quan hệ hữu nghị với
Trung Quốc. Trước hết, thuyết phục BCT/TW Đảng và Quốc hội thông qua
Hiến pháp của Trung ương, xóa bỏ tất cả các nội dung có liên quan đến
khía cạnh chống Trung Quốc. Sau đó, họ thực hiện công việc này thành
công, và cuối cùng đã quyết định rút quân ra khỏi Campuchia.
Nguyễn Văn Linh nói tiếp:
− Trong tình hình quốc tế hiện nay, Việt
Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội xem Trung Quốc là trung tâm mạnh mẽ nhất
để phát triển tình đoàn kết, hữu nghị và quan hệ hợp tác, nó càng trở
nên quan trọng và cấp bách. Vì vậy, mong muốn lớn nhất của tôi là đạt
được trước năm 1991 bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Trung Quốc. Có như
thế thì toàn đảng Cộng sản Việt Nam nhận đó một sự kiện tinh thần thú
vị.
Nguyễn Văn Linh thổ lộ tiếp: Tôi biết tầm
quan trọng và tính cấp thiết của việc giải quyết vấn đề Campuchia. Ban
đầu, hai bên Việt Nam-Trung Quốc giải quyết thông qua các kênh ngoại
giao để thảo luận là tốt nhất hợp lý nhất. Tuy nhiên, nguyên do ông Bộ
Trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cố tình làm cho rắc rối, và bây giờ
con đường này rất khó khăn đi qua. Vì vậy, tôi rất cần ông ta phải xem
xét chuyến thăm Bắc Kinh, để tôi bày tỏ trực tiếp với Chủ tịch Giang
Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng, tìm cung cấp điều kiện và giải pháp tốt
nhất cho vấn đề Campuchia. BCT/TW của Nguyễn Văn Linh đại đa số quan
điểm không đồng nhất, Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm cho mọi thứ không
cùng đi trên một lộ trình, giống như hôm nay gặp Đại sứ Trương Đức Duy
một mình không nên quá nhiều người. Chẳng hạn như Chủ tịch Giang Trạch
Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời tôi, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc,
cũng như Đại sứ đã trực tiếp đến Bộ Quốc phòng Việt Nam, gặp Nguyễn Văn
Linh và làm việc chung, hiện thời gian này tôi còn một hy vọng nơi Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước Đỗ Mười lấy uy tín cá nhân chuyển tải quan điểm
của các nhà lãnh đạo Trung Quốc đến công luận Việt Nam, vì vậy một số
thành viên trong quốc hội của Đảng sẽ dễ chấp nhận hơn đem đến an toàn
cho hội nghị Thành Đô.
Đại sứ Trương Đức Duy cảm ơn cuộc gặp gỡ
này rất thú vị, do Nguyễn Văn Linh chủ động đưa ra thẳng thắn quan điểm,
Trương Đức Duy cho biết sẽ báo cáo ngay lập tức cuộc trao đổi này về
Bắc Kinh.
Ngày 12 tháng 5 năm 1993. Cựu Tổng Bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh gặp Đại sứ Trung Quốc Trương
Đức Duy (Zhang Dewei), trong không khí bí mật tại BCT/TW Việt Nam.
Hội nghị bí mật Thành Đô
Buổi chiều ngày 28 tháng 8. Đại sứ quán
nhận được tập hồ sơ hướng dẫn chương trình mật nghị Thành Đô gửi từ Bắc
Kinh, Đại sứ quán vui mừng chuyển thông báo này cho Nguyễn Văn Linh. Đại
sứ Trương Đức Duy thông báo và cho biết thêm: Tổng Bí thư Giang Trạch
Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Hội
đồng Chủ tịch Bộ trưởng Đỗ Mười, và gửi lời chào mừng chuyên gia tư vấn
Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng cùng tham dự đã bổ túc vào danh sách hội
nghị cao cấp của hai Đảng. Hiện nay, giải pháp chính trị vấn đề
Campuchia đã thành hình, và Việt Nam nên làm việc với Trung Quốc để góp
phần giải quyết vấn đề càng sớm càng tốt, thực hiện thuận lợi cho các
cuộc đàm phán bí mật tại địa điểm sẽ được bố trí ở Thành Đô, Tứ Xuyên để
tạo không gian “bình thường hóa quan hệ Trung-Việt”. Mọi chi tiết hội
nghị bí mật Thành Đô đều truy cập trong nội bộ ngày 03-ngày 04 tháng 9
năm 1990 tại Thành Đô Trung Quốc.
Đại sứ Trương Đức Duy, lập tức triệu tập
các ủy ban để mở rộng hoạt động nội bộ của Đại sứ quán, học tập chuyển
thông tin quan trọng và truyền đạt đến Nguyễn Văn Linh và những người có
trách nhiện nội bộ Thành Đô. Trước khi đi vào chương trình hoạt động
tìm những kinh nghiệm khác bổ túc, tất cả nhân viên Đại sứ quán phải
biết làm thế nào tận dụng hết khả năng quan điểm “Phổ Nhân” (Puer).
Triệu Vũ Quan (Zhao Wuguan) người phụ trách liên lạc Bộ Quốc phòng Việt
Nam quyết định.
Ngày 5 tháng 6 năm 1993. Đại tướng Võ
Nguyên Giáp gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei), trong
không khí bí mật tại Bộ Quốc Phòng Việt Nam (阮文灵张德维大使会见).
Lúc 8 giờ ngày 29, Đại sứ Trương Đức Duy
gặp một lần nữa với Hoàng Đích (黄的-Lê Đức Anh, gián điện MSS), yêu cầu
anh ta thông tin quan trọng trước khi đối diện với Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh và báo cáo từ những hỗ trợ của Bắc Kinh trong việc sắp xếp Đại
sứ Trương Đức Duy trước một giờ thời điểm áp chót hành động, Bộ Quốc
phòng Việt Nam và Văn phòng Ngoại giao Giám đốc Vũ (Wu) phải gặp tại tần
số Triệu Vũ Quan (Zhao Wuguan) để truyền tải thông điệp đến Lê Đức Anh.
Dự kiến 16 giờ 00, Đỗ Mười gặp gỡ với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
cùng với Đại sứ Trương Đức Duy. Để hiển thị cuộc họp và chính thức thông
qua kênh bí mật của Đại sứ quán. Hôm nay Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đề
nghị Đại sứ quán Trung Quốc phối trí một nơi làm Trung ương đảng Cộng
sản Việt Nam hải ngoại, cho trường hợp khẩn cấp, tôi hy vọng trong hôm
nay có một cuộc họp của các nhà lãnh đạo xung quanh Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh. Theo ông Nguyễn Văn Linh đang chuẩn bị đưa ra một sơ đồ “kỳ ý”
hành động.
Lúc 01giờ 00 cùng ngày, Đại sứ Trương Đức
Duy sẽ gặp Thứ trưởng Trung ương Bộ Hải ngoại Trịnh Ngọc Thái (Zhengyu)
thực hiện các yêu cầu vừa rồi.
Sau khi Đảng sắp xếp sinh hoạt bên ngoài,
đúng 16 giờ 00, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười gặp lại Đại sứ Trương Đức
Duy tại phòng họp Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam hải ngoại.
Một lần nữa trong ngày, Đại sứ Trương Đức
Duy truyền đạt đến Nguyễn Văn Linh lời chúc của Giang Trạch Dân và Thủ
tướng Lý Bằng theo tinh thần nội bộ.
Nguyễn Văn Linh rất vui mừng và chúc lại,
phía Trung Quốc đã đồng ý đáp ứng thời điểm và địa chỉ đã đề xuất chuẩn
bị nhiều phương tiện cho hội nghị, điều đó được báo cáo ngay cho Bộ
Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, sau khi danh sách thành
phần nhân sự của phái đoàn Việt Nam được xác định có thể bắt đầu chuẩn
bị lên đường. Nguyễn Văn Linh cho biết, tình trạng sức khỏe của đồng chí
Phạm Văn Đồng rất tốt, tuy nhiên Võ Nguyên Giáp muốn tham gia hội nghị
nhưng bị loại, bởi lý do hay lẻo mép ăn nói lung tung! Sau cuộc họp buổi
chiều lấy danh sách, Đại sứ Trương Đức Duy ngay lập tức báo cáo vế Bắc
Kinh.
Vào ngày 30, Bắc Kinh thông báo cho Đại
sứ quán tại Hà Nội theo kế hoạch tổng quát cuộc họp đầu tiên của hai nhà
lãnh đạo Việt Nam-Trung Quốc vào buổi chiều ngày 03 tháng 9, sau đó
tiếp tục cuộc đàm phán, ngày 04 tháng 9 buổi sáng đàm phán đến chiều bế
mạc.
Ngày 5 tháng 6 năm 1993. Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng Đỗ Mười gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang
Dewei), trong không khí bí mật tại Bộ Quốc Phòng Việt Nam.
Theo lời của Triệu Vũ Quan (Zhao Wuguan) người phụ trách liên lạc Bộ Quốc phòng Việt Nam và Đại sứ Trương Đức Duy:
− Từ sáng ngày 3/9/1990, tôi đến trước
vào sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, phái đoàn Việt Nam đến sau, có 15
người, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng, và gồm các quan
chức tháp tùng như Chánh Văn phòng Trung ương ông Hồng Hà, Bộ trưởng Hải
ngoại Trung ương Đảng ông Hoàng Bích Sơn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao ông
Đinh Nho Liêm, và các nhân viên còn lại. Đại sứ Trương Đức Duy cũng đến
sân bay vào thời điểm đó, sau khi Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn
Đồng, Đại sứ Trương Đức Duy và đoàn tùy tùng lên máy bay chuyên cơ
Tu-134, cất cánh vào lúc sáng 8 giờ 10 phút, ngày 3 tháng 9/1990.
Theo lời của Đại sứ Trương Đức Duy:
Máy bay chuyên cơ Tu-134 đã cất cánh chở
các nhà lãnh đạo tối cao Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chính phủ Đỗ Mười, Cố vấn Ban
chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên Thủ tướng chính phủ
Phạm Văn Đồng. Họ lặng lẽ ngồi ủ rũ trong lòng chuyên cơ đang bay, không
ai biết trong đầu của họ suy nghĩ những gì, cũng có kẻ cho biết họ băn
khoăn một dự đoán trong hành trình, chắc chắn ảnh hưởng hết sức quan
trọng đến mối quan hệ Trung-Việt. Chuyên cơ cứ thế mà bay qua khỏi biên
giới Việt-Trung, trực chỉ về hướng trước thẳng vào tỉnh Nam Ninh.
Vào lúc 11 giờ 00 cùng ngày, chiếc chuyên
cơ hạ cánh xuống phi trường chuyên dụng Nam Ninh Quảng Tây, trong bầu
không khí tĩnh mịch, phái đoàn lãnh đạo Việt Nam đi dưới vùng trời mưa u
ám, tỏa sương lành lạnh, như thể là khói đạn cay, trái phá của những
tay đàn áp người biểu tình Dân Chủ bất bạo động tại Việt Nam, khói còn
động lại đâu đây, từ phía trước có những bước chân của những nhà lãnh
đạo âm thầm đi trong căn nhà bí mật, đôi chân của họ không rộn rã như
những công an hồ Hoàn Kiếm Hà Nội. Những nguyên thủ quốc gia Việt Nam
lặng lẽ, lẻo đẽo theo chân Trương Đức Duy đi qua hành lang lạ, vắng bóng
người kèn trống khua vang, thiếu cả dàn chào đón tiếp và tiễn đưa theo
nghi lễ quốc khách danh dự, lại càng không có cảnh tượng dân chúng tưng
bừng phất cờ quạt Việt Nam, nhà báo không háo hức đưa tin, báo chí không
loan tải một cột tin “sóc” nào cả, cuối cùng thế giới không biết đoàn
người này là ai, mà di chuyển bằng chuyên cơ? Tất cả những điều đó hầu
hết vắng lặng bởi chính nó đã tự khoác lên một không gian bí ẩn. Những
nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong hội kín bí mật,
thanh toán bí mật, ăn bẩn bí mật, lừa đảo bí mật, buôn quyền bán chức bí
mật, tham nhũng bí mật, hoạt động bí mật. Vốn “Bác Hồ” nhà kiến trúc hệ
thống bí mật, xưa nay vẫn thế và ngày nay tiếp tục bí mật đến Thành Đô
đàm phán bán nước.
Tại phi trường Nam Ninh, Đại sứ toàn
quyền Trung Quốc tại Việt Nam Trương Đức Duy (Zhang Dewei), hướng dẫn
các nhà lãnh đạo Việt Nam xuống máy bay. Phía Trung Quốc có ba cán bộ
trung ương thay mặt nhà nước ra sân bay tiếp đón, gồm có Thứ trưởng Bộ
ngoại giao Tề Hoài Viễn (Qi Huai xa), Trợ lý Bộ trưởng Từ Đôn Tín (从唐信),
Thứ trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Chu Thiện Khanh (Zhutian
Thanh). Sinh hoạt ở đây không khác nào thời Việt Minh, muốn vào mật khu
phải đi qua nhiều chốt giao liên. Ba cán bộ giao liên đến đón các vị
khách đứng trước thang máy bay. Trong kế hoạch bảo mật không cho chính
giới địa phương trong vùng Quảng Tây biết trước, trong sân bay bố trí
chặt chẽ, các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra khỏi chuyên cơ,
lập tức di chuyển nhanh đến chuyên cơ thứ hai, cất cánh bay đến Thành
Đô.
Các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam
vừa ra khỏi chuyên cơ tại phi trường chuyên dụng Nam Ninh Quảng Tây
(非专业的领域广西南宁). Lập tức di chuyển nhanh đến chuyên cơ thứ hai đang chuẩn
bị cất cánh bay đến phi trường quốc tế Song Lưu Thành Đô Tứ Xuyên
(双流国际机场四川成都).
Lúc 1 giờ chiều 1990, chiếc chuyên cơ hạ
cánh xuống phi trường quốc tế Song Lưu Thành Đô. Họ nhanh chóng đưa đoàn
đại biểu tới Nhà khách Tỉnh ủy Tứ Xuyên “Kim Ngưu tân quán” Thành Đô
(成都宾馆金牛). Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng đứng trước
cửa đón chào những người khách bí mật. Sau khi chủ và khách đã ngồi vào
phòng nhà khách, hai bên hỏi thăm lẫn nhau, đồng thời tiến hành trao đổi
thủ tục đơn giản. Tổng bí thư Giang Trạch Dân giải thích: “Đồng chí
Đặng Tiểu Bình đi nghỉ ở xa, nên lần này không gặp các vị được”. Cuộc
gặp mặt đơn giản kết thúc xong, phái đoàn được hướng dẫn về phòng nghỉ
ngơi một lúc.
Đến 3 giờ chiều, hai bên bắt đầu tiến
hành chính thức vòng đầu đàm phán. Tổng bí thư Giang Trạch Dân phát biểu
ngắn, tiếp theo Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đọc lời mở đầu dài cả cây
số đã chuẩn bị trước. Sau đó, Tổng bí thư Giang Trạch Dân trình bày có
hệ thống về giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia và mối quan hệ
Trung-Việt.
Trong cuộc đàm phán hai nhà lãnh đạo thảo
luận về một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia-Việt Nam và khôi
phục quan hệ bình thường hóa Trung Quốc-Việt Nam. Hai bên tập trung vào
các cuộc đàm phán Hội đồng tối cao của Cơ quan lâm thời tại Campuchia.
Trung Quốc đưa ra đề nghị một Ủy ban gồm 13 thành viên, Sihanouk chủ
tịch, chế độ Phnom Penh 6 thành viên, các lực lượng kháng chiến
Campuchia (Khmer Đỏ), Ranariddh và Son Sann giới thiệu từ 2 đến 3 thành
viên, Tổng cộng có 6 thành viên. Thành lập Ủy ban này Trung Quốc chủ
động, Nguyễn Văn Linh có thể chấp nhận; Đỗ Mười phát biểu: Chỉ một mình
Sihanouk cũng là lực lượng kháng chiến hay sao, tỷ lệ đại diện như vậy
cả hai bên 6-7, lực lượng kháng chiến hơn một chỗ ngồi, chia ghế lối này
sẽ khó khăn cho việc chấp nhận tại Phnom Penh. Phạm Văn Đồng phát biểu:
Kế hoạch của Trung Quốc là không công bằng và cũng không hợp lý. Đến
đây, vấn đề Campuchia đã được bàn bạc ổn thỏa. Chỉ còn trở ngại lớn nhất
quan hệ Việt Nam-Campuchia, cuối cùng các bên đã nhất trí bởi Trung
Quốc đưa ra thuyết phục Phnom Penh thực hiện chính quyền nhiều thành
phần.
Về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam, cả hai
bên đều phù hợp với thái độ hướng tới tương lai, không cần thiết phải
xem xét lại quan điểm và những phát biểu cũ đã được thông qua. Hai nhà
lãnh đạo nhất trí cho rằng “kết thúc quá khứ, mở ra tương lai”. Tiếp
đến, vấn đề khôi phục lại quan hệ giữa hai nước, hai đảng được bàn bạc
trao đổi theo chiều hướng khá thuận lợi. Trung Quốc tuyên bố: “Từ nay,
ông chủ của túi tiền, vung tay xóa nợ cũ”, phái đoàn Việt Nam tự nhiên
vỗ tay dài lâu tỏ ý vui mừng, chấp nhận Trung Cộng mua trọn gói BCT/TW
đảng Cộng sản Việt Nam tại hội nghị bí mật Thành Đô. Tiếp theo tuyên bố
lần thứ hai của Giang Trạch Dân: “Chúng tôi không gợi lại tiền nợ cũ,
viện trợ cho chiến tranh Việt Nam”. Vấn đề lớn tiền nợ được giải mã.
Trong buổi đàm phán bí mật, kích thích đồng lõa đằng sau nhe nụ cười,
tiếng vỗ tay đề huề, đưa ra một tín hiệu “dắt díu lòng trôi đến thành
quả vô hạn”. Tổng Bí thư Giang Trạch Dân tự thấy chiến thắng mở lòng bày
tỏ, giữa hai nước chúng ta từ đây có thể “khép lại quá khứ, hướng tới
tương lai”. Phía Việt Nam tự mỹ mãn, phấn khởi thành công đàm phán bí
mật Thành Đô, đem lại cho đất nước Việt Nam một kỷ nguyên đầy hứa hẹn mở
ra gông xiềng mới. Sau khi hội nghị đàm phán bí mật kết thúc, hai nhà
lãnh đạo Nguyễn Văn Linh và Giang Trạch Dân đồng ký vào “Kỷ yếu hội nghị
đàm phán bí mật Thành Đô” còn gọi là “Kỷ yếu bình thường hóa quan hệ
song phương Việt Nam-Trung Quốc”.
Giang Trạch Dân vui mừng giở trò ru con ngủ bất tận, trích dẫn bài thơ của Giang Vĩnh (Jiang Yong-诗人江永)
vào triều đại nhà Thanh: “Phong ba đã trôi, mỗi tình anh em vẫn còn,
gặp nhau lại vui, bỏ qua hết thẩy hận thù” (Độ tận kiếp ba huynh đệ tại,
Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu) hay “Chúng tôi vẫn còn anh em, nụ
cười có thể làm tan đi các đồng minh và kẻ thù”. (Ngã môn hoàn thị huynh
đệ, tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu). Vần thơ này làm lời kết cho cuộc
đàm phán “nội bộ”. Tặng cho những đứa con ma Việt Nam, các đồng chí
BCT/TW đảng “Bác” quá hài lòng. [7]
Trung Quốc thành công mỹ mãn, lập tức đặt
bữa tiệc chiêu đãi tưng bừng, phái đoàn Việt Nam hỷ hả. Trước khi đoàn
đại biểu Việt Nam rời Thành Đô, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Tổng Bí
thư Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng nhau tạm biệt
mang ý nghĩa viết nên một chương bản mệnh thê thảm cho Việt Nam.
Đêm đó, Nguyễn Văn Linh đã đạt được
nguyện vọng, viết lên bốn câu thơ Việt Nam trăn trối, gửi tặng Trương
Đức Duy: “Anh em ở lại thế hệ trôi qua, sự oán giận tức thời của những
đám mây, mỉm cười khi gặp lại mở, bạn vàng và tái thiết”.
Để đảm bảo sự thành công cho cuộc hội
nghị bí mật, Sở Ngoại vụ tỉnh Tứ Xuyên, thực hiện rất nhiều công việc
chuẩn bị và công tác anh ninh cho tổ chức. Người ta nói rằng hai ngày
hội nghị bí mật. Kim Ngưu tân quán phải rời đi tất cả những người khách
khác cho thật xa khu vực hội nghị và an ninh cô lập trung tâm Kim Ngưu.
Theo chỉ thị của Trung Quốc không cho bất kỳ ai gửi tin nhắn đến phái
đoàn Việt Nam, bí mật tuyệt đối và phục vụ tối đa chủ yếu làm hài lòng
BCT/TW đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà khách Tỉnh ủy Tứ Xuyên “Kim Ngưu tân quán”
Thành Đô và hội trường mật nghị Trung Quốc-Việt Nam 3-4/9/1990. Địa
chỉ: Đại lộ Kim Tuyền Thành Đô, Tứ Xuyên. Zip 2: 610.036. Điện thoại:
86-28-87306666. Fax: 86-28-87305555. Những lãnh đạo Cộng sản đã từng đến
Kim Ngưu tân quán để lại lưu bút gồm Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ
Mười, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Hồng Hà,
Hoàng Bích Sơn, Đinh Nho Liêm, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn
Tấn Dũng v.v…[8]
Giang Trạch Dân về đến Bắc Kinh dõng dạc
tuyên bố: Đã lấy được “Kỷ yếu hội nghị đàm phán bí mật, bình thường hóa
quan hệ song phương Việt Nam-Trung Quốc” như thể của “Quý di tích lịch
sử”. Những anh em đi sau đã có phương tiện tùy phương thức và vô tư tung
hoành toàn diện trên đất chư hầu Việt Nam.[9]
Quan hệ hữu nghị Việt Cộng-Trung Cộng
đánh dấu một cột mốc mới. Sau đó Việt Cộng chọn địa chỉ nhà khách Tỉnh
ủy Tứ Xuyên “Kim Ngưu tân quán” Thành Đô, làm đất thiêng tổ chức những
hội nghị v.v… Đảng xem đây là tiêu chuẩn của tình bạn Việt-Trung, ít
nhất nơi này đã trải qua nhiều kinh nghiệm hội nghị bí mật “bình thường
hóa quan hệ song phương Việt-Trung”. Đảng đã ký vào “Kỷ yếu luật chơi
mất nước”, mở ra một hướng đi mới đem lại khởi sắc vinh dự và tự hào cho
toàn đảng.
Những thế hệ Cộng sản đời sau, đến Kim
Ngưu để vẽ lên thành tích mới, và nhớ lại thành tích cũ của đảng, Tổng
Giám đốc giáo thức của Việt Nam Phạm Quang Anh (Fan Guangying cháu của
Phạm Văn Đồng) cũng đến đây mở nhiều cuộc hội họp. Phạm Quang Anh rộng
miệng khoe với Trương Đức Duy: “Tôi rất tâm đắc và trân quý Thành Đô,
tôi có chụp hai ảnh chung với đồng chí Giang Trạch Dân hiện còn treo ở
đấy”. Chánh Văn phòng Trung ương ông Hồng Hà đã từng nói với Trương Đức
Duy rằng: “Sau này đại hội trung ương đảng cũng nên chọn Kim Ngưu Thành
Đô, bởi đó là nơi lịch sử quá tuyệt vời.
Tháng 2 năm 2000, chuyến thăm Thành Đô
của BCT/TW Đảng, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, đến nơi đây đề cao ngọn cờ
người tiền nhiệm đã làm vẻ vang lịch sử đảng. Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt và Lê
Khả Phiêu cũng chạy đua với Nguyễn Văn Linh, nối gót vẽ hùm thêm cánh
cho trang sử 16 chữ vàng (4 tốt), rực lửa đảng đốt cháy VN “láng giềng
tốt, quan hệ tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, và đối tác tốt “. Kim Ngưu
tân quán gắn liền với lịch sử đảng Cộng sản, đồng nghĩa lãnh đạo đảng
Cộng sản Việt Nam bày tỏ cùng quyết tâm với các nhà lãnh đạo Trung Quốc,
khi cần giải quyết Việt Nam hẹn gặp nhau Thành Đô, tiếp tục quan hệ bí
mật bán nước.
Huỳnh Tâm
Chú thích:
[1] (越南黎德英的国防部长站在政治角色密谈在成都,1990年).
[2] (đồng sở hữu quốc gia thành vi bằng hữu-同所有国家成为朋友) chịu dưới sự hướng dẫn của Trung Cộng.
[3] Bộ Quốc Phòng Việt Nam (阮文灵张德维大使会见).
[4] Những người Việt Nam đào thoát qua Trung Quốc bằng máy bay năm 1976 ( ) như sau:
Ngày 28 tháng 9 buổi sáng, Joe Ching lái xe Lu-thời gian của máy bay chung chính trị đến sân bay Bạch Mai.
30 tháng 9 lúc nửa đêm 14:00, Yang Văn Lệ
7 người với đèn pin và la bàn từ tính, đi xe đạp từ thành phố, dọc theo
con đường thẳng 4000 mét Sân bay Bạch Mai. Trên đường đi, họ gặp nhau
tại một sườn đồi nhỏ với Joe Lu Thanh, nhóm Huang, Li Yushan 3 người.
10 người chia thành ba nhóm, đầu tiên và
duy Joe Huang Qing Lu và hai nhóm, chịu trách nhiệm các liên kết sân
bay. Nhóm thứ hai là Li Yushan và một phó, họ đã có đèn pin, la bàn từ
tính, vv để các nhà để xe sân bay. Trường hợp có một khoảng trống trong
hàng rào, chỉ cần băng qua hàng rào kẽm gai tạp dề thẳng. Nhóm thứ ba do
Yang Văn Lệ, để biên dịch trực thăng cầu rồng bay thông đồng.
[5] “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, toàn diện tốt” (睦邻友好和全面合作关系不断提高到新的水准).
[6] Chú ý “Trung Việt” đã không còn dấu gạch ngang như xưa Trung-Việt.
[7] (原创): “渡尽劫波兄弟在, 相见一笑泯恩仇”. 是清代诗人江永”.
[8] 地址:四川省成都市金泉路2号 邮编: 610036 电话: 86-28-87306666 传真: 86-28-87305555. http://www.jnhotel.com/p1.asp .
Khách sạn Kim Ngưu (金牛) được xây dựng vào năm 1957. Những người đã từng
đến đây như Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Lưu Thiếu Kỳ,
Zhu De, Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Hồ Cẩm Đào, Kim Il Sung, Sihanouk,
胡志明, 阮文灵, 杜梅, 范文同,黎德英, 乐孟黎冒险, 闳哈, 碧晃子, 亭儒列姆和阮富仲.
Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười,
Phạm Văn Đồng, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu Nông Đức Mạnh, Hồng Hà, Hoàng
Bích Sơn, Đinh Nho Liêm và Nguyễn Phú Trọng v.v…
[9] 获得 “大会秘密谈判程序正常化的双边关系越中国” 作为 “历史街区” 的. 这些兄弟有办法根据越南公正的综合机动方式去后.
No comments:
Post a Comment