Nước Cộng hoà Ba Lan có một truyền thống
dân chủ lâu đời. Bản Hiến pháp được thông qua vào ngày 3 tháng 5 năm
1791, là bản Hiến pháp hiện đại đầu tiên ở châu Âu và thứ hai trên thế
giới (sau Hiến pháp năm 1787 của Mỹ).
Ba Lan giành lại độc lập năm 1918, sau Thế chiến thứ nhất, với tư cách nền Cộng hoà Ba Lan II.
Ngày 1 tháng 9 năm 1939 phát xít Đức tấn
công Ba lan, mở màn cho Chiến tranh Thế giới II. Chính phủ Ba Lan buộc
phải rời khỏi Ba Lan và thành lập Chính phủ lưu vong có trụ sở ở London
trong những năm 1939-1990, là sự tiếp nối hợp pháp của nền Cộng hoà II.
Chiến tranh Thế giới II kết thúc, thoát
khỏi ách đô hộ của phát xít Đức thì Ba Lan lại bị gạt qua sự áp bức khác
không kém phần khắc nghiệt: đất nước bị áp đặt sự cai trị của một nhà
nước Cộng sản độc tài toàn trị, được gọi là “Cộng hoà Nhân dân Ba Lan”,
từ năm 1945 đến 1989.
Chế độ cộng sản sụp đổ vào năm 1989. Sau
cuộc bầu cử tổng thống tự do với thắng lợi thuộc về Lech Walesa, nhà
chức trách của Cộng hòa Ba Lan lưu vong kết thúc nhiệm vụ và Tổng thống
lưu vong R. Kaczorowski đã chuyển giao quốc hiệu cho Tổng thống dân cử
Lech Walesa.
Nhà nước Ba Lan dân chủ ra đời và về mặt chính thức, được gọi là nền Cộng hoà Ba lan III.
Như vậy thời gian từ 1945 đến 1989, nhà
nước “Cộng hoà Nhân dân Ba Lan” đã không được ghi vào sự kế tục của Nhà
nước Cộng hoà. Một thời gian 44 năm bị đánh mất trong lịch sử của dân
tộc Ba Lan!
Nước Việt Nam kém may mắn hơn!
Ngày 17 tháng 4 năm 1945 Chính phủ của
“Đế quốc Việt Nam” đứng đầu là Trần Trọng Kim thành lập và được vua Bảo
Đại phê chuẩn. Đây là nội các đầu tiên của nước Việt Nam độc lập và
thống nhất trên danh nghĩa và ra mắt quốc dân ngày 19 tháng 4.
Mặc dù đây là thể chế do Nhật dựng lên,
không có thực quyền, nhưng có thể là một cơ hội cho Việt Nam chuẩn bị
đầy đủ khả năng nhận lãnh hay đòi hỏi độc lập hoàn toàn khi thế chiến
thứ II kết thúc, giống như nhiều nước châu Á khác.
Tuy nhiên, Đế Quốc Việt Nam chỉ tồn tại
trong 5 tháng, từ tháng 3 năm 1945 đến tháng 8 năm 1945 cho tới khi bị
Đảng Cộng sản Việt Nam bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 xoá bỏ.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đưa đến việc
ký kết hiệp định Geneve và từ năm 1954 Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền
cai trị trên miền Bắc, còn ở miền Nam một chính thể Cộng hoà ra đời. Mặc
dù đây là một chính quyền thân Mỹ nhưng nó đảm bảo những yếu tố cơ bản
của một nhà nước Cộng hoà.
Ở một khía cạnh nào đó có thể xem nền
Cộng hoà ở miền Nam là sự kế tục nền Cộng hoà “Đế quốc Việt Nam” của Thủ
tứơng Trần Trọng Kim.
Quốc kỳ cho Việt Nam Cộng Hoà được sử dụng khá tương đồng với quốc kỳ của Đế quốc Việt Nam, nền vàng ba sọc đỏ.
Theo Hiệp định Paris năm 1973, Mỹ rút
quân khỏi Việt Nam và cắt viện trợ quân sự khiến Việt Nam Cộng Hoà phải
đương đầu với cuộc đánh chiếm miền Nam bằng bạo lực của Bắc Việt và cả
khối cộng sản.
Tháng 4 năm 1975, Bắc Việt chiến thắng.
Đảng Cộng sản Việt Nam thống trị trên cả nước. Nền Cộng hoà non trẻ của
Việt Nam tại miền Nam chấm dứt.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện tập
thể hoá nông nghiệp, di dân đi kinh tế mới, cải tạo công thương, ngăn
sống cấm chợ, áp dụng chế độ phân phối lương thực trên cả nước, bắt giam
giữ cải tạo hàng trăm ngàn quân cán chính của Việt Nam Cộng hoà và phân
biệt đối xử tàn bạo với gia đình và con em họ… Chủ trương và chính sách
khắc nghiệt này đã khiến cả triệu người phải dứt bỏ quê hương, đối diện
với cái chết, ra đi tìm tự do ở xứ sở khác.
Khó chính xác để nói có bao nhiêu người
đã bỏ mình trên biển. Có nguồn dẫn con số 200 ngàn nhưng một số nguồn
khác ước tính 500 ngàn – 600 ngàn người chết ngoài biển. Năm 1981 hội
Chữ thập đỏ quốc tế ước đoán phân nửa số người vượt biển chết dưới tay
hải tặc.
Một cộng đồng người Việt hải ngoại được
tạo nên, ngày mỗi lớn mạnh và có ảnh hưởng tại các nước bản xứ. Sự căm
thù và bất hợp tác với nhà nước cộng sản của cộng đồng này xuất phát từ
những mất mát nêu trên.
Nhà nước Cộng sản đã áp đặt một bộ máy
công an trị trên cả nước, dùng bạo lực để đàn áp mọi tư tưởng phản
kháng, tước đoạt các quyền cơ bản của con người mà trước hết là quyền
bầu cử tự do, tự do ngôn luận, tự do lập hội…
Có thể nói không cường điệu rằng, Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã biến cả nước thành một nhà tù khổng lồ, nơi mà an
ninh theo dõi kiểm soát, chi phối từng hoạt động của mỗi người. Chỉ sự
ngoan ngoãn, tuân phục mới có thể mang lại yên lành. Một chế độ bất nhân
và vong bản, chỉ đáp ứng ít nhiều về vật chất nhưng hoàn toàn giam hãm
tư tưởng của con người trong một của học thuyết ngoại lai, không tưởng:
học thuyết Mác-Lenin.
Chẳng biết khi nào chế độ Cộng sản ở Việt
Nam mới sụp đổ, nhưng là một chế độ đi ngược với xu thế của nhân loại
tiến bộ, chắc chắn sẽ bị xoá sổ.
Đã hình thành những tiếng nói phản
kháng, đã có sự thức tỉnh của nhiều đảng viên trong guồng máy và sự chán
nản của dân chúng đối với nhà nước cộng sản.
Nếu giống như Ba Lan, khi chế độ cộng sản
được thay thế bằng một nhà nước Cộng hoà dân cử. Lúc ấy nhìn lại lịch
sử chúng ta có thể kết luận rằng, thời gian cầm quyền của Đảng Cộng Sản
Việt Nam là thời gian bị đánh mất. Một thời gian bi thảm, chứa chất đầu
thù hận, chia rẽ và đau thương của người Việt.
© Lê Diễn Đức
No comments:
Post a Comment