Chủ nghĩa cộng sản đã chiếm
một địa vị nổi bật trong khung cảnh lịch sử đầy những thảm họa đó.
Nhưng có một điều lạ là cho đến nay những tội ác của cộng sản vẫn chưa
được lượng định một cách công bằng từ cả quan điểm lịch sử lẫn quan điểm
đạo đức.
So sánh với chế độ Đức Quốc
Xã đã giết hại khoảng 25 triệu người thì các chế độ cộng sản đã tàn ác
và nguy hiểm hơn nhiều vì đã giết hai đến 100 triệu người.
Điều ngạc nhiên là mặc dầu
vậy, hệ thống chính quyền cộng sản, mãi cho đến ngày nay, vẫn duy trì
được tính chất hợp pháp trên trường quốc tế và vẫn còn tiếp tục nắm
quyền cai trị ở một số quốc gia. Phải chăng điều này đã vượt quá tầm
hiểu biết bình thường của nhân loại hay người ta đang né tránh một sự
thật nào đó cần phải dấu. Những đoạn viết sau đây hy vọng sẽ mang lại
được một chút ánh sáng nào đó trong việc trả lời câu hỏi nói trên. Xin
mời qúy độc giả đọc tiếp.
Kiểm kê thực tế về chủ nghía Marx.
Chủ nghĩa Marx có hai mũi
nhọn tấn công chiến lược : chuyên chính vô sản và nhà nước tự tiêu
vong. Theo lập luận của Marx thì chyên chính vô sản (CCVS) có mục đích
chấn áp giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất. Như vậy, sự tồn tại của CCVS liên quan đến
hai điều kiện : kẻ thù giai cấp và nhà nước tự tiêu vong.
Về điều kiện thứ nhất, khái niệm kẻ thù
giai cấp là một khái niệm hết sức mơ hồ. Sau này cà Lenin và Stalin đều
gặp khó khăn, không thể giải quyết, khi phải đối mặt với tính phức tạp
cũa khái niệm này.
Theo sự dụ dỗ của Marx thì CCVS chỉ có
tính cách tạm thời. Nhưng tạm thời lả bao lâu và làm thế nào để tránh
sự lạm dụng của những kẻ nhân danh giai cấp vô sàn kéo dài quá mức cần
thiết của CCVS. Kinh nghiệm này, rất nhiều dân tộc đã phải trả giá đắt
trong đó có Việt Nam.
Theo thói thường, kẻ cầm quyền không bao
giờ thiết tha với việc mở rộng dân chủ vì sợ mất địa vị và đặc quyền đặc
lợi của mình. Đó là lý do giải thích tái sao ở các nước áp dụng CCVS ,
dân chủ đều vắng mặt.
Về điều kiện thứ hai, nếu sự thực chế độ
tư hữu phát sinh ra “nhà nước” thì có thễ đồng ý rằng sự tiêu diệt chế
độ tư hữu tất yếu sẽ dẫn đến sự tiêu vong của “nhà nước”. Thế nhưng,
nếu “nhà nước” có một nguồn gốc độc lập không kiên quan gì đến lãnh vực
kinh tế thì việc xóa bỏ tư hữu để tập trung toàn bộ phương tiện và tư
liệu sản xuất vào trong tay “nhà nước”, sẽ không làm cho “nhà nước” tiêu
vong, mà ngược lại, sẽ làm cho “nhà nước” ngày càng bành trướng hơn.
Kinh nghiệm này, ngày nay, nhiều dân tộc đã trải qua, và sự tiêu vong
của “nhà nước” thật ra chỉ là một thủ đoạn lừa bịp.
Khôi phục bản chất của “nhà nước” tức là
dân chủ hóa. Đòi hỏi phải xóa bỏ tính giai cấp của “nhà nước” là để
“nhà nước” trở thành “nhà nước” của toàn dân. Đây là điểm cốt yếu trong
đấu tranh dân chủ. Tin vào tính thánh thiện của giai cấp vô sản khi
chúng nắm chính quyền thì chỉ có thể là sự ngây thơ của con nít.
Kiểm kê thực tế về chủ nghĩa Marx-Lenin và chiến thuật tạo phản.
Chủ nghĩa Marx-Lenin là một ứng dụng của
chủ nghĩa Marx vào thực tế do Lenin khai triển. Vào thế kỷ 20, tất cả
các nước tự coi là cộng sản và tất cả các đảng cộng sản tại các quốc gia
khác đều thành lập trên các nguyên tắc của chủ nghĩa Marx-Lenin.
Hạt nhân ý thức hệ của chủ nghĩa này là “
Cách mạng vô sản không xuất phát một cách tự nhiên từ một nước tư bản.
Nhất thiết cần có một đảng cách mạng chuyên nghiệp tiền phong hướng dẫn
giai cấp công nhân trong việc lật đổ tư bản bằng baọ lực rồi sau đó lập
nên một thể chế chuyên chính vô sản như là bước đầu tiến tới xã hội
cộng sản”.
Chủ ngĩa Marx-Lenin lập luận rằng sở dĩ
công nhân trong các nước tư bản tiên tiến không chọn lựa cánh mạng vì
chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang một giai đoạn mới trong đó các nhà tư
bản mang tiền đến các thuộc địa khai thác bóc lột và làm giàu rồi dùng
số tiền kiếm được này đút lót công nhân trong nước bằng cách tăng lương
cho họ. Khi nào các thị trường thuộc địa bị phong trào gỉải phóng dân
tộc phá vỡ thì tư bản thuộc địa lại trở về với mẫu quốc và lúc đó cách
máng vô sản sẽ nổ ra.
Lenin coi “đế quốc” chứ không phải “tư
bản” là kẻ thù chính như Marx đã giảng dạy. Cách tiếp cận của Lenin với
chủ nghĩa cộng sản thực tế hơn lý thuyết cổ điển của Marx , và cũng
chinh vì thế mà Lenin đã lãnh đạo thành công cách mạng vô sản đầu tiên
tại Nga năm 1917.
Lenin nghĩ rằng cơ chế chính trị này
không thể do những người vô sản vụng về và ít học xây dựng được mà phải
do chính tay ông làm lấy. Với niềm tin đó chủ nghĩa Marx-Lenin xuất
hiện. Chủ nghĩa này không xây dựng được một xã hội hoàn thiện. Nó chỉ
trở thành công cụ để cướp giữ chính quyền cho một nhóm người háo danh và
tham lợi.
Năm 1917 Lenin trở thành chúa tể của nước
Nga. Lúc đó ông phát hiện ra rằng hàng triệu công nhân và nông dân
không chấp nhận tư tưởng của Marx. Trước hiện thực này ông thấy chỉ có
thể giữ quyền lực cho Đảng Cộng Sản bằng vũ lực, khủng bố và áp bức.
Nuôi sẵn môt mối thù chưa trả cho người anh bị Nga Hoàng treo cổ giết và
có sẵn truyền thống sát nhân trong huyết quản, ông đã ra lệnh bắn giết
hàng vạn người và bỏ chết đói hàng triệu người một cách dễ dàng như hơi
thở. Khi làm như vậy, ông đã dùng tư tưởng của Marx về “tính tất yếu của cách mạng” để biện hộ cho tội ác của mình.
Chiến thuật tạo phản
của Lenin còn được goi là khoa học khởi lọan. Trong suốt cuộc đời đấu
tranh của mình, Lenin đã tinh luyện phương thức khởi lọan mà những người
Bon-sê-vích là những người đầu tiên sử dụng và đạt thắng lợi.
Chiến thuật này là một phương thức phải
kể lể dài dòng nên không tiện viết xuống mấy trang tham luận vắn tắt,
nhưng điều phải nói là nó cũng đã được những người cộng sản ở những quốc
gia khác áp dụng thành công trong những vụ cướp chính quyền liên tiếp
xảy ra suốt chiều dài Chiến Tranh Lạnh của thế kỷ 20.
Những trang sử đẫm máu của Khủng Bố Đỏ và Đại Thanh Trừng
Trong những ngày đầu Lenin cai trị nước
Nga, khủng bố đỏ là một chiến dịch của chính quyền nhằm đối phó với
những người chống đối họ. Chiến dịch này được công bố bắt đâu từ ngày
2/9/1918 và chấm dứt vào tháng 10 cùng năm. Trên thực tế nó đã kéo dài
suốt bốn năm nội chiến, nghĩa là từ 1918 đến 1922.
Cơ quan mật vụ Tcheka và các cơ sở tinh báo quân đội được giao phó trách nhiệm hoàn
thành chiến dịch. Chính Lenin đã trù liệu biện pháp này ngay từ khi
chưa nắm chính quyền, theo sự chỉ dạy của Marx và rút kinh nghiệm từ
Công Xả Paris năm 1871.
Ngay sau khi được ban bố, chiến dịch này
đã rầm rộ trả thù cho vụ ám sát Moisei Uristky, thủ lĩnh Tcheka
Petrograd và cho vụ mưu sát Lenin bởi Fania Kaplan ngày 30/8/1918. Hôm
ấy Lenin bị bắn ba phát, 2 phát trúng người, và một 1 viên đạn ghim
trong ngực không lấy ra được. Lenin chết sớm vào năm 1924 vì viên đạn
này.
Sau đây là những vụ giết người để tra
thù. Thoạt đầu có 500 đại biểu của giai cấp tư sản bi hành quyết ngay
sau khi trùm Tcheka Petrograd bị ám sát. Tuy nhiên theo báo cáo của
Tcheka được công bố thì số người bị bắn là 800 và bị tù là 6229.
Tại Kharkiv : 3000 vụ sử bắn từ 2 đến
6/6/1919 và 2000 vụ khác trong tháng12. Tại Rostow-on-Don : 1000 vụ
sử bắn trong tháng 1/1920. Tại Odessa : 2000 vụ sử bắn từ tháng 5 đến
tháng 8/1919, tiếp theo là 3000 vụ từ tháng 2/1920 đến tháng 8/1921.
Tại Kyiv : 3000 vụ sử bắn từ tháng 2/1919 đến tháng 8/1919. Tại
Ekaterinodar : 3000 vụ sử bắn từ tháng 3/1920 đến tháng 2/1921. Tại
Armavir : 3000 vụ sử bắn từ tháng 8/1920 đến tháng 10/1920 . Tất cả
là 20.000 vụ sử bắn và danh sách cứ tiếp tục kéo dài theo đà diễn tiến
của nội chiến.
Cuộc thảm sát lớn nhất xảy ra tại vùng
Crimea vào cuối năm 1920. Với sự đồng ý của Lenin, Bela Kun đã xử bắn
và treo cổ 50.000 sĩ quan da trắng của các lực lượng Bạch Vệ sau khi họ
đầu hàng. Đó là chưa kể số phận cũa 4 triệu người đào ngũ và đình công
bị trôi sông và đầy đi các trại trừng giới.
Đối với gia đình của Sa Hoàng Nicolas II,
lúc đầu người Bon-Sê-Vích chỉ định đưa ra xử trước tòa án. Nhưng tháng
8/1918 khi lực lượng Bạch Vệ tiến gần đến Yekaterinburg, nơi gia đình
Sa Hoàng bị quản thú thì Jacob Sverdloy, người phụ trách việc giam giữ,
yêu cầu sô viết địa phương hành quyết. Sự yêu cầu này được chấp thuận
nên Sa Hoàng cùng vợ con và các hầu cận đều bi giết.
Khủng Bố Đỏ gây ấn tượng sợ hãi đối với
dân chúng không chỉ vì số người bị giết lên đến hàng triệu mà còn vì
cung cách giết người độc ác và man rợ chưa từng thấy. Bên cạnh các vụ
xử tử bằng súng đạn, các Tcheka đã biểu diễn trước mắt quần chúng một số
phương thức hành quyết vô cùng rùng rợn.
Chẳng hạn như : Tcheka Odessa buộc các sĩ
quan Bạch Vệ vào những tấm ván rồi từ từ đẩy họ vào lò lửa hay dìm họ
xuống ngững bể nước sôi; Tcheka Voronezh lột trần truồng tù nhân rồi lăn
họ trên những thảm đinh sắc nhọn cho đến khi tắt thở; Tcheka Khardo,
chuyên môn lột da đầu và da tay tội nhân trước khi hành quyết; Tcheka
Ekaterinoslav đóng đinh tay tù nhân vào những phiến đá rồi bỏ mặc cho họ
chết vì đau đớn; Tcheka Kremenchug xiên tay chân những vị tu hành bằng
giây kẽm rồi chôn sống; Tcheka Oral lột quần áo tù nhân, xối nước lạnh
lên người rồi bắt đứng ngoài trời đông buốt giá cho đến khi biến thành
tượng; Tcheka Kiev trói chặt tù nhân rồi cho chuột đói đục khoét và gậm
nhấm ruột gan.
Tất cả những hình phạt nói trên đều được thi hành giữa đám đông để gây khiếp sợ. Tác giả Robert Daniels trong tác phẩm “Red October : The Bolshevick Revolution of 1917” viết
rằng : “với sự mở cửa của các kho tài liệu mật Liên Xô, người ta đã
biết mầm mống và luận thuyết khuyến khích tội ác diệt chủng là sáng tạo
của Lenin. Khủng Bố Đỏ là chính sách của Lenin áp dụng để duy trì quyền lực sau khi cuộc Đảo Chính Tháng 10 thành cộng tại nước Nga”.
*
Thắng lợi của cuộc Đảo Chính tháng 10 là
do tình hình thế giời và do tương quan lực lượng trong nước tạo nên.
Thật ra bản thân các giai cấp trong lòng xã hội bán khai thời Sa Hoàng
và nền kinh tế tư bản lạc hậu của xứ này chưa được chuẩn bị để làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Ở các nước tư bản tiên tiến thời đó giai
cấp công nhân cũng chưa sẵn sàng để tiến hành cuộc cách mạng này. Vì
thế sau khi Cuộc Đảo Chính thành công, nước Nga không nhận đươc sự tài
trợ đến từ Tây Phương. Đất nước lâm cảnh nội chiến kéo dài và nhân dân
lâm cảnh khốn cùng của nghèo túng đói rét.
Cuộc giải ngũ 5 triệu hồng quân hình
thành một đẳng cấp quan liêu. Họ vun đắp cho sự sùng bái cá nhân của
Stalin để củng cố chỗ dựa và giữ đặc qyền đặc lợi. Nhưng càng được sung
bái thì Stalin càng lộng hành và dần dần vượt ra ngoài giới hạn mà bọn
quan liêu mong muốn.
Cuộc Đại Thanh Trừng là một chiến dịch
thanh lọc do Stalin tiến hành giữa hai năm 1937-1938 nhằm hạ sát và tù
đầy những phần tử chống đối trong đảng, trong chính phủ, quân đội và
trong xã hội trên mọi lãnh vực. Cách đâ không lâu, một số tài liệu được
giải mã cho biết 1 triệu người đã bị giết trong hai năm 1936-1938, 18
triệu người lao động khổ sai trong các trại cải tạo, 14,5 triệu người bị
bỏ chết đói và 9,5 triệu người bị đầy ải tại những vùng đất hoang vu
giá lạnh miền Bắc Cực.
Năm 1934, Stalin dàn dựng vụ ám sát
Sergey Kirov, một đố thủ chính trị tương lai, để mở màn cho vụ thanh
trừng. Qua cuộc thanh trừng, Stalin đã giết gần hết các nhân vật tên
tuổi của cuộc Đảo Chính Tháng 10. Trong số 6 người thuộc Bộ Chính Trị,
có 4 người bị giết. Trotsky phải chạy ra nước ngoài để cuối cùng cũng
bị tên mật vụ Ramon Nercader ám hại trong năm 1940. Trong số 1966 ủy
viên do Đại Hội Nghị thứ 17 bầu ra, 1108 người bị Stalin bắt giữ và sát
hại gần hết.
Ngày 30/9/1950, một số thành viên trong
tổ chức đảng của thành phố Leningrad gồm Kuznetsov, Rodionov, Povlov,
Vonezsensky, Kapstin, Lazustin bị đưa ra xử kín và bị hành quyết ngày kế
tiếp.
Ngày 13/1/1953 báo Pravda công bố một lá
thư của nữ bác sĩ Lydia Timachouk gửi cho Stalin, tố cáo 15 bác sĩ đã áp
dụng phép chữa bệnh không hợp pháp. Stalin kết luận tức khắc là đang
có một âm mưu của một số bác sĩ chống Liên Xô và ra lệnh bắt. Đó là sự
khởi đầu cho một giai đoạn Đại Khủng Bố thứ hai mà chỉ có cái chết của
Stalin mới làm cho nó bị phá hỏng.
Ngoài ra cũng còn phải kể cả chính sách phi Kulak hóa, nạn đói Golodomor và vụ thảm sát tại khu rừng Katyn. Chính sách phi Kulak hóa
được thực hiện từ năm1930 đến năm 1932. Mục đích chủ yếu là tiêu
diệt các phú nông như một giai cấp. Những người phú nông không chịu hợp
tác bị bắn chết hay bị trục xuất với gia đình tới những vùng đất hoang
vu ở Siberia và Bấc Cực. Hàng vạn người đã bỏ thy ở những vùng đất này.
Từ Golomodor dùng để chỉ nạn đói
kinh hoàng đã làm chết 6 triệu người vào các năm 1932-1933. Nạn đói
này là hậu quả của việc Stalin tịch thu nông phẩm của nông dân để bán
cho Tây Phương lấy tiền phát triển kỹ nghệ. Kết quả là vùng trung tâm
của Nga chết đói 2 triệu người, Kazhastan chết đói 1,7 triệu, Ukrain
chết đói 1,3 triệu và Bắc Caucase chết đói 1 triệu.
Sau cùng phải đề cập đến những mồ chôn tập thể tại khu rừng Katyn,
cách thị xã Smolenks (Nga), khoảng 19 cây số. Những mồ chôn tập thể
này được phát hiện năm 1943 nhưng vào thời điểm đó chính quyền
Liên Xô cực lực chối cãi. Mãi đến thập niên 1990 sau khi đích thân thăm
viếng khu rừng Katyn, tổng thống Nga Yeltsin mới chịu nhận là Bộ Trinh
Sát NKVD của Nga đã nhúng tay vào vụ thảm sát đó. Tháng 4/1940, Vasili
M. Bloklin , nhân viên NKVD đã tự tay hạ sát bằng súng 6000 người Ba
Lan và chôn tập thể tại khu rừng này. Rõ ràng là một tội ác diệt chủng
mà Liên Xô phải chịu trách nhiệm, không thể chối cãi.
Kiểm kê thực tế tội ác của Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình
Sau khi Stalin chết phong trào cộng sản
bành trướng sang Phương Đông và tác động tại Trung Hoa. Lúc này, tại
đây, Tưởng Giới Thạch thua trận đã phải chạy ra đảo Đài Loan. Nhân Dân
Trung Quốc hy vọng Mao Trạch Đông thực hiện lời hứa dân chủ thời Diên
An, là làm cho Diên An trở thành Washington của Trung Quốc.
Nhưng khi vào được Trung Nam Hải thì Mao
trở mặt tuyên bố ông vừa là Marx vừa là Tần Thủy Hoàng. Thật ra ông còn
tàn bạo hơn Tần Thủy Hoàng rất nhiều vì ba năm “Nhảy Vọt Lớn”, với 37,5
triệu người chết đói, đã trở thành bạo chính lớn nhất cổ kim trong và
ngoài nước.
Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại.
Tháng 1/1958, Mao Trạch Đông hạ lệnh tiến hành kế hoạch ngũ niên thứ hai, đặt tên là “Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại”.
Kế hoạch này là mẫu hình phát triển kinh tế theo công thức của Liên
Xô. Trong kế hoạch, các hợp tác xã nông nghiệp nhỏ bị hủy bỏ để tập
trung thành nhứng “nông xã nhân dân” khổng lồ với kích thước cả
ngàn người. Kế hoạch này khởi sự áp dụng tại Hà Nam và Liễu Ninh rồi
nhanh chóng phát triển ra cả nước.
Ngoài việc trồng lúa gạo, lực lượng nông
dân còn phải làm những công trình thủy lợi và phát triển hệ thống giao
thông. Nông xã nào cũng phải có một lò luyện thép. Nguyên liệu cung
cấp cho các lò này không phải lấy từ mỏ lên mà là bất cứ thứ gì bằng sắt
thép mà con người đang xử dụng như dao kéo, thìa muổng, cuốc xẻng, vật
dụng khác trong nhà và đôi khi cả đường sắt hỏa xa.
Các phương pháp khoa học không được thử
nghiệm trong trồng cấy và trong sản xuất kim khí. Chỉ tiêu sản xuất
cũng tăng lên một cách phi lý, không căn cứ vào khả năng và sức lực của
con người. Kết quả là mức sản xuất ngũ cốc giảm 15% trong năm 1959,
giảm thêm 10% nữa trong năm 1960 và hoàn toàn không được phục hồi trong
năm1961. Sắt thép làm ra thuộc loại xấu không dùng được.
Nhân dân che giấu sự thất bại này bằng
những báo cáo giả dối để tránh bị chế độ trừng phạt. Con người không
còn gì để tự nuôi sống. Một nạn đói khủng khiếp xảy ra khắp nơi trên
lãnh thổ, làm chết hàng chục triệu người trong thời gian 1959-1962.
Đói đến nỗi tại nhiểu nơi
người ta ăn thịt trẻ em bằng cách đổi con cho nhau để tránh phải chứng
kiến cảnh tượng ăn thịt chính con mình.
Vì sợ khủng bố, cả nước phải giữ im lặng trước thảm trạng hãi hùng đó, trừ một người duy nhất là thống chế Bành Đức Hoài. Trong một bức thư gửi cho Mao Trạch Đông,
ông đã chỉ trích “Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại” và cho Mao biết sự thật. Ông
bị thanh trừng ngay sau đó, bị làm nhục trong “Cách Mạng Văn Hóa” và
chết trong tù năm 1974.
Uy tín của Mao sụt giảm trong hàng ngũ
lãnh đạo. Mao phải từ chức chủ tịch nước năm 1962 và chỉ còn giữ lại
chức chủ tịch Đảng. Lưu Thiếu Kỳ trở thành chủ tịch nước, Đặng Tiểu
Bình trở thành tổng bí thư và Chu Ân Lai trở thành thủ tướng. Cả ba đều
được lòng dân chúng nhưng họ không được lòng Mao và những kẻ theo Mao.
Cuộc Cách Mạng Văn Hóa
Năm 1963, để cướp lại quyền hành Mao kéo
về phe mình bộ trưởng quốc phòng Lâm Bưu, Giang Thanh (vợ thứ tư của
Mao), và Vương Hồng Văn (đệ tử của Giang Thanh).
Ngày 29/5/1966, đơn vị Hồng Vệ Binh đầu
tiên, một lực lượng quần chúng ủng hộ Mao, được thành lập tại Đại Học
Thanh Hoa (Thượng Hải). Cuộc Cách Mạng Văn Hóa bắt đầu với danh nghĩa
là chấn chỉnh những nét văn hóa không hợp thời và thanh lọc những phần
tử bị hủ hóa đang trở lại con đường tư bản.
Ngày 8/8/1966, Ủy Ban Trung Ương Đảng
chính thức ban hành quyết định về Đại Cách Mạng Văn Hóa và chỉ thị phát
triển phong trào này đến các tầng lớp nông dân, công nhân, binh sĩ và
đảng viên. Hồng Vệ Binh được thành lập khắp nới và lên tới con số 11
triệu người. Họ càng ngày càng hung dữ và có khuynh hướng xử dụng bạo
lực.
Ngày 3/1/1967, với sự hỗ trợ của Hồng Vệ
Binh Thượng Hải, Lâm Bưu và Giang Thanh công khai phê phán nặng nề Lưu
Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Tại các địa phương một tình trạng tương tự
cũng xảy ra. Các nhóm Hồng Vệ Binh vũ trang, được Mao cổ võ và khen
ngợi, bắt đầu đấu đá nhau để chứng tỏ xem ai tích cực hơn. Khi những vụ
này xảy ra, Giang Thanh lạm quyền, tự cho phép ra lệnh cho Hồng Vệ Binh
thay thế quàn đội Giải Phóng mỗi khi cần thiết.
Được phép này, Hồng Vệ Binh chiếm các kho
vũ khí tại địa phương. Tranh chấp leo thang Không khí bạo loạn sôi
sục. Nội bộ Đảng nhất trí là Hồng Vệ Binh đã đi quá giới hạn được phép
và trật tự cần được vãn hồi.
Cho đến ngày trật tự được vãn hồi vào
tháng 10/1967 thì Lưu Thiếu Kỳ đã bị bắt, bị đuổi ra khỏi Đảng, cho vào
tù và chết trong ngục cấm năm 1969. Đặng Tiểu Bình thì bị đưa đi cải
tạo. Mấy năm sau, nhờ sự can thiệp của Chu Ân Lai, họ Đặng mới được trở
lại chính quyền, Những người kém may mắn khác đã bị thanh toán mà
không ai biết tới.
Tháng 12/1968, Mao phát động “Phong trào
trở lại nông thôn” và đưa hết bọn Hồng Vệ Binh ra ngoài thành phố.
Phong trào kéo dài 10 năm mới chấm dứt. Cũng trong thời gian này, nhiều
tin về việc mưu sát Mao mà thủ phạm là Lâm Bưu được tung ra. Sau ngày
11/9/1970 người ta không thấy Lâm Bưu xuất hiện nữa. Một số thân tín
của Lâm Bưu bỏ trốn sang Hông Kông.. Một số khác gồm 12 tướng lãnh bị
bắt.
Ngày 13/9/1971 có tin là Lâm Bưu và gia
đình lấy máy bay sang Liên Xô nhưng máy bay bị nổ trên không phận Mông
Cổ làm tất cả hành khách thiệt mạng. Ngày 8/1/1976 thủ tướng Chu Ân
Lai chết Ngày 9/9/1976 Mao Trạch Đông từ trần. Di chúc của Mao chỉ
định Hoa Quốc Phong làm chủ tịch nước. Bè lũ bốn tên gồm Giang Thanh,
Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu văn Nguyên bi nhốt vào ngục.
Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền và dần dần củng cố quyền lực.
Những con số chính xác về việc có bao
nhiêu người, trong khoảng thời gian Cách Mạng Văn Hóa, đã bị chết thì có
lẽ không bao giờ được công bố, nhưng cuốn Hắc Thư Về Tội Ác Cộng Sản
của Stéphane Courtois, xuất bản trong những năm gần đây, thì cho biết
con số đó là vào khoảng 20 triệu nhân mạng.
Sự kiện Thiên An Môn
Đối với người nước ngoài, Thiên An Môn
gợi lên hình ảnh một cuộc đàn áp đẫm máu vào ngày 4/6/1989. Cuộc đàn áp
được trình chiếu trên các đài truyền hình cùa thế giới đã gây một ấn
tượng và một xúc động mạnh trong trí óc và tư tướng của phần lớn nhân
loại được chứng kiến.
Nạn nhân của cuộc đàn áp đó là các sinh
viên trẻ. Họ đến quảng trường Thiên An Môn rất đông để dự lễ tưởng niệm
Hồ Diệu Bang, vị thủ tướng quá cố đã đóng góp rất nhiều cho việc dân
chủ hóa đất nước. Sự hiện diện của họ cũng là để khuyến khich vị thủ
tướng kế tiếp, Triệu Tử Dương, can đảm tiến theo con đường đã vạch sẵn.
Cái mà người ta không hiểu được là tại
sao Đặng Tiểu Bình lại ra tay đàn áp sinh viên trẻ yêu chuộng tự do bằng
chiến xa và quân đội. Những yêu cầu mà sinh viên đệ đạt lên chính phủ
không có gì là quá đáng, vậy mà cuộc tàn sát đã khốc liệt đế độ không
một ai trong giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc có can đảm nhận lãnh
trách nhiệm.
Kết quả là hơn 1000 đã chết và khoảng
10.000 người đã bị thương tại Bắc Kinh. Tại các tỉnh những vụ hành
quyết và bắt bớ đã được hóa trang thành những vụ thường phạm. Hơn 10.000
người đã bị bắt tại Bắc Kinh và khoảng 30.000 người đã bị bắt trên khắp
Trung Quốc.
Sau cuộc trấn áp Thiên An Môn, Đảng CSTQ
bị phá sàn về mặt đạo đức. Trong nước gần như không còn ai tin vào
những khẩu hiệu mà Đảng vẫn hô hào về xã hội chủ nghĩa. Quân đội nhân
dân cũng mất mặt vì đà nổ súng vào chính nhân dân. Ngoài nước, mô hình
chính trị cuả Trung Quốc bị cả loài người ghê tởm. Trước mắt nhân loại
Trung Quốc xuất hiện như một dân tộc hoàn toàn thiếu văn minh.
*
Qua những đoạn viết trên ta thấy những
tội ác mà nhân loại đã phải chịu đựng trong thời gian qua, và vẫn còn
phải tiếp tục chịu đựng cho đến ngày nay, dù ở một mức độ kém ác độc
hơn, chính yếu xuất phát từ hai đế quốc kỳ cựu nhất của lục địa Âu-Á là
nước Nga và Trung Hoa.
Hai đế quốc này đã lợi dụng kẽ hở của chủ
nghĩa Marx không tưởng để lừa bip nhân loại và dùng bạo lực gieo rắc
thảm họa khắp mọi nơi nhằm giữ gìn quyền lợi cho một nhóm chuyên chính
nhỏ, sau khi các chế độ quân chủ bị thanh toán.
Hai nước đó là những tàn dư của những nền
văn minh lạc hậu đang trên đà sụp đổ. Không những họ vẫn ngoan cố
không chịu nhìn nhận sự thật lịch sử mà còn đẩy xa lý luận đến chỗ nói
rằng “Thế giới được chia thành hai khu vực văn hóa : khu vực Á Châu
gồm các nước Đông Phương, và khu vực Tây Phương gồm các nước Âu Châu và
Bắc Mỹ. Cho nên mọi xâm phạm của bên này vào lãnh vực văn hóa của nên
kia phải được coi như là một hành động đế quốc văn hóa”.
Thật ra, đứng về quan điểm vô tư mà nói, thì phải cho rằng thế gới không có hai hệ giá trị văn hóa ngang hàng
Tây Phương và Đông Phương. Nếu mang ra so sánh thì là sự so sánh giữa
cái “hiện đại” và cái “lạc hậu”. Tây Phương với sức phát triển về mọi
mặt tượng trưng cho cái hiện đại. Đông Phương với sự kém phát triển về
mọi mặt tương trưng cho cái lạc hậu, lỗi thời.
Bằng chứng dễ nhận thấy nhất về sự so
sánh đó là sự bất tương hợp (incompatible) của các giá trị lạc hậu Đông
Phương với các giá trị hiện đại của nhân quyền và dân chủ.
Tây Phương và Hoa Kỳ đang tìm cách để xóa bỏ sự khác biệt đó đi. Xóa
bỏ không phải bằng chiến tranh mà bằng phương pháp hòa bình vì chiến
tranh làm cho bạo lực trở thành chính đáng và làm cho giá trị của đời
sống con người trở thành rẻ mạt. Thời gian chờ đợi tuy hơi lâu hơn đôi
chút nhưng đó là cái giả chúng ta phải trả.
Kiểm kê thực tế tội ác cộng sản là khép
lại cánh cửa của chủ nghĩa Mác-Xít không tưởng để cho hy vọng về một
tương lai tươi sáng của nhân loại không còn là ảo vọng./.
Nguyễn Cao Quyền
No comments:
Post a Comment