Cuốn tự truyện “Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch”
của Trần Dân Tiên được in ấn, phát hành bằng tiếng Trung ở Thượng Hải
năm 1948, tiếng Pháp ở Paris năm 1949, là bản tiểu sử ráp nối, gắn kết
cuộc đời Nguyễn Ái Quốc vào nhân vật Hồ Chí Minh. Phổ biến cuốn tự
truyện “Hồ Chủ Tịch” có nghĩa là cộng sản quốc tế đã đồng tình với tình
báo Hoa Nam chính thức công khai vở diễn Hồ Chí Minh nhập vai đóng thế
Nguyễn Ái Quốc sau nhiều năm âm thầm chuẩn bị tô son đánh phấn lẫn diệt
trừ, bịt các đầu mối có nguy cơ làm hỏng kịch bản đóng thế của diễn viên
Hồ Chí Minh.
Không khó để thấy, là nhiều năm trước năm 1941 là thời điểm Hồ Chí Minh
(Già Thu) xuất hiện ở Pác Bó cho đến năm 1945 là năm Hồ Chí Minh cướp
chính quyền hợp pháp của chính phủ Trần Trọng Kim thì cộng sản quốc tế,
tình báo Hoa Nam đã âm thầm huấn luyện, chuẩn bị biên soạn lý luận, giải
thích tình tiết sao cho nghe xuôi tai về những năm Nguyễn Ái Quốc mất
tích.
Cụ thể là lúc Hồ Chí Minh sang Moscow học khóa tình báo ở đại học Phương
Đông Phương với bí danh Lin thì Hồ Chí Minh vẫn chưa nằm trong kế hoạch
đóng thế Nguyễn Ái Quốc của cộng sản quốc tế nên Hồ vô tư khai sinh
1901 với nhiều chi tiết cá nhân không liên quan gì đến nguyễn Ái Quốc và
để cho Hồ nhập vai Quốc phù hợp với thời điểm Hồ Chí Minh (Hồ Quang)
làm thiếu tá Bát Lộ Quân ở Diên An, một trong hàng trăm bí danh của cả
Quốc với Hồ thì tiểu sử trích ngang của Hồ được xào nấu, biên soạn có
đoạn viết như sau:
“...Đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc đã có mặt ở Liên Xô. Ông dự Đại hội
lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm
1935, nhưng không được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương của Quốc tế Cộng
sản. Đại diện của Việt Nam tại ban chấp hành này là Lê Hồng Phong. Theo
tài liệu của một số nhà sử học, ông bị ép buộc phải ở lại Liên Xô và bị
giam lỏng hoặc nói nhẹ hơn là bị kỷ luật, do bị nghi ngờ về lý do ông
được nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do(?)...
... Ông phụ trách chung những người cộng sản Việt Nam và theo học
khóa ngắn hạn tại trường Lenin là trường Đảng cao cấp dành cho các lãnh
tụ cộng sản nước ngoài (1934-1935). Năm 1935, ông được bầu làm đại diện
của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế Cộng sản. Trong khi Lê
Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai... về nước từ 1936 và các học sinh
người Việt Nam không tiếp tục sang Liên Xô nữa thì ông vẫn phải ở lại
Liên Xô. Thời gian này ông có theo học lớp nghiên cứu sinh sử học của
Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa nhưng sau đó không tốt
nghiệp. Ông rời Liên Xô vào mùa thu năm 1938...”
Tất cả chi tiết diễn giải về Nguyễn Ái Quốc từ năm 1933 đến 1941 chỉ
nhằm giải thích sao cho phù hợp với thời điểm Hồ Chí Minh mang bí danh
Hồ Quang làm thiếu tá Bát Lộ Quân ở Diên An...
Song song việc tiêu diệt những “đồng chí” có khả năng làm lộ bí mật Hồ
đóng thế Quốc, là ban tham mưu giấu mặt của Hồ Chí Minh chỉ đạo, hổ trợ
Hồ ra tay thanh toán hầu hết những cá nhân biết Nguyễn Ái Quốc, biết Hồ
Chí Minh và biết cả hai Quốc với Hồ.
Đến khi Hồ Chí Minh cướp được chính quyền, giành lấy chức chủ tịch nước
thì mạng lưới tình báo cộng sản quốc tế, tình báo Tàu bí mật hổ trợ tài,
nhân, vật lực để giết thêm những ai có khả năng làm lộ vai diễn và
những người đe dọa đến việc thu tóm quyền lực tuyệt đối của Hồ gây trở
ngại cho nhiệm vụ nhuộm đỏ Việt Nam của cộng sản quốc tế, cộng sản Tàu
trực tiếp giao phó.
Trước khi thanh toán nốt những ai có nguy cơ làm lộ kế hoạch Hồ nhập vai
đóng thế Quốc thì bộ đầu não của hệ thống đặc tình của Nga-Tàu bày mưu
lập kế cũng như cung cấp nhân sự cho Hồ Chí Minh tiêu diệt để thực hiện
mục tiêu thu tóm quyền lực tuyệt đối vào trong tay Hồ.
Với các nhân sĩ, trí thức yêu nước, các lãnh đạo đảng phái chính trị
không cộng sản thì thế lực trong bóng tối chỉ đạo cho Hồ Chí Minh ngoài
mặt hô hào đoàn kết chống Pháp nằm dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh.
Những ai ngoan ngoãn đoàn kết thì Hồ ban phát chức tước và với những ai
không chịu hợp tác thì Hồ bí mật ra lệnh ám sát, thủ tiêu hoặc công khai
giết rồi cài tội trạng Việt gian phản quốc lên ngực áo... giết đủ kiểu
đủ cách...
Những nhân tài không chịu hợp tác với Hồ thì đội quân sát thủ của Hồ
khủng bố, săn lùng tiêu diệt là chuyện bình thường nhưng những nhân sĩ,
trí thức hợp tác với Hồ mà tài giỏi, khí phách có uy tín trong nhân dân,
trong lực lượng kháng chiến chống Pháp, có tiềm năng... dù không có ý
định tranh đoạt quyền hành của Hồ cũng không thoát khỏi bàn tay đẫm đầy
máu của quỷ dữ Hồ Chí Minh.
Nhiều người tài có tiếng tăm tham gia chính phủ liên hiệp kháng chiến
của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa - trúng cử vào quốc hội khóa đầu tiên
được Hồ ban phát chức vụ trong Chính Phủ Liên Hiệp Lâm Thời Việt Nam
sau một thời gian hợp tác nhận ra bộ mặt tráo trở lật lọng của Hồ, nếu
không chạy thoát ra nước ngoài được đều bị đội sát thủ bí mật của Hồ
giết bằng nhiều cách - từ đánh thuốc độc, ám sát thủ tiêu, tố điêu xử tử
với tội Việt gian phản quốc, tội kẻ thù giai cấp hoặc dàn dựng cảnh lực
lượng vũ trang Pháp tấn công tiêu diệt... đến chỉ điểm cho “địch” bắt
giết.
Những nhân vật chủ chốt của các đảng phái chính trị không cộng sản rời
bỏ chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến lưu vong sang Trung Quốc gồm có:
Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng khanh... và những người không
đảng phái như cựu hoàng Bảo Đại, cựu thủ tướng Trần Trọng Kim... là
những người chỉ nghe tiếng Nguyễn Ái Quốc, chỉ biết mặt Hồ Chí Minh khi
nghe lời kêu gọi đoàn kết, thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Lâm Thời Việt
Nam.
Sau khi diệt trừ đầu não của các đảng phái chính trị không cộng sản như
Việt Quốc, Việt Cách, Duy Dân, Tân Việt, Đại Việt, Lập Hiến... thì bộ
tham mưu của Hồ chí Minh đặt tầm ngắm vào các tu sĩ, nhân sĩ, trí thức
yêu nước có uy tín, có khả năng tập hợp quần chúng đã tham gia chính phủ
Liên Hiệp kháng chiến của Hồ Chí Minh hoặc chỉ ủng hộ nhưng không tham
gia chính quyền.
Những giòng tộc lớn, những tu sĩ, nhân sĩ, trí thức yêu nước tham gia Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến có uy tín, có tiếng tăm được nhân dân tín nhiệm, ủng hộ từ thành thị đến thôn quê, có khả năng tập hợp quần chúng đã bị bộ phận siêu quyền lực trong bóng tối của Hồ Chí Minh thanh toán gồm có: Tiến Sĩ Huỳnh Thúc Kháng, Cử Nhân Võ Liêm Sơn, Phó Bảng Đặng Văn Hướng, Đức Thầy Cao Triều Phát, Linh mục Phạm Bá Trực, Thượng Thư Bùi Bằng Đoàn...
Tiến Sĩ Huỳnh Thúc Kháng Cử Nhân Võ Liêm Sơn Thượng Thư Bùi Bằng Đoàn
Đức Thầy Cao Triều Phát
Linh Mục Phạm Bá Trực
Phó Bảng Đặng Văn Hướng
Sau đây chúng ta cùng đọc một số nét về các nhà cách mạng, các chí sĩ,
các tu sĩ trí thức tinh hoa của Việt Nam tham gia, đóng góp cho Chính
Phủ liên Hiệp kháng Chiến do Hồ Chí Minh cướp quyền lãnh đạo - chết như
thế nào?
1) Tiến Sĩ Huỳnh Thúc Kháng: Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông ra tham gia Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Theo sử gia Trần Trọng Kim thì trong thời gian này, khi được hỏi về công việc, Huỳnh Thúc Kháng đã nói: "Bây giờ việc gì cũng do địa phương tự trị cả, thành ra không có việc gì mấy, và khi có việc gì, thì họ làm sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ ký mà thôi".
Năm 1946, khi Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, Huỳnh Thúc Kháng được cử
làm Quyền Chủ tịch nước Việt Nam. Thời gian này ông còn là Chủ tịch Hội
Liên hiệp Quốc dân Việt Nam. Cuối năm 1946, ông là Đặc phái viên của
Chính phủ vào cơ quan Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Trung Bộ tại
Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 21 tháng 4 năm 1947, ông lâm bệnh nặng và mất huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
2) Cử Nhân Võ Liêm Sơn: Năm 1944, ông bí mật tham gia Mặt trận Việt
Minh. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông về quê nhà, tham gia công tác
kháng chiến tại Hà Tĩnh.
Năm 1947, Võ Liêm Sơn được chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bổ nhiệm
làm Trưởng ban tuyên truyền kháng chiến, Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành
chính đồng thời được cử làm Chủ tịch Mặt trận Liên việt Hà Tĩnh.
Năm 1948, Võ Liêm Sơn được đi dự hội nghị Kháng chiến toàn quốc và hội
nghị Văn hóa toàn quốc ở Việt Bắc. Đó cũng là “cơ duyên” cụ Võ được gặp
Bác Hồ và cùng nhau uống rượu xướng họa thơ. Lần ấy Bác đã mời cụ Võ về ở
với mình bảy ngày và khi chia tay người bạn cũ để về lại khu 4, Hà
Tĩnh, cụ Võ được Bác Hồ tặng chiếc gậy có khắc dòng chữ: “Tặng Võ Liêm
Sơn tiên sinh”.
Ngày 22/12/1949 ông mất vì bạo bệnh, nghĩa là chỉ không đầy một năm sau ngày ông họa thơ và được Hồ chí Minh tặng gậy.
3) Phó Bảng Đặng Văn Hướng: Thời gian làm Tổng đốc Nghệ An, phong trào
Việt Minh đã ngấm ngầm thấm vào đất xứ Nghệ, ông bí mật liên lạc với
Trần Văn Cung (Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An) và ông Lê Viết Lượng (sau này là
Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Trung Bộ). Ông cho thay thế tên lãnh binh
bằng ông Trần Văn Quang (sau này là Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc
phòng, Chủ tịch Hội CCB Việt Nam). Chức Chánh văn phòng tỉnh được ông
giao cho Nguyễn Tạo (sau này là Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp).
Ông thay những tên tri huyện có xu hướng thân Pháp, Nhật bằng những
người có xu hướng dân tộc…
Ông đã Việt minh hóa bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim, vì vậy mà khi
Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông bàn giao ấn tín, súng đạn, tiền của, giấy
má từ chính quyền thân Nhật sang chính quyền Cách mạng như trở bàn tay,
không tốn một viên đạn, một giọt máu. Xe của Việt Minh treo cờ đỏ sao
vàng, rước ông về quê rất trân trọng, trong tiếng hoan hô đón tiếp của
dân làng. Năm 1945 ông tham gia Việt Minh tại Liên khu IV và khi Hồ Chí
Minh thành lập Chính phủ, ông được mời ra giữ chức Bộ trưởng không bộ,
phụ trách Thanh-Nghệ-Tĩnh...
4) Thượng Thư Bùi Bằng Đoàn: Nổi tiếng liêm khiết, chính trực, cả ba anh
em ông đều thi đổ nên được mệnh danh là Hà Đông tam bằng. Ngày 6 tháng 1
năm 1946 ông ứng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam tại tỉnh Hà Đông và
trúng cử, đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính phủ cử ông làm Trưởng
ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ,[3] tương đương với chức Tổng Thanh
tra Chính phủ Việt Nam.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946, ông được bầu vào Ban Thường trực Quốc hội, tham
gia thành lập Hội liên hiệp quốc dân. Ngày 8 tháng 11 năm 1946, ông
được cử làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội thay cho ông Nguyễn Văn Tố.
Năm 1947-1948, ông hoạt động ở chiến khu Việt Bắc. Tháng 8 năm 1948 ông
bị bệnh bán thân bất toại ở Việt Bắc, Hồ chủ tịch ra lệnh đưa ông về
Liên khu 3, trong thời gian bệnh ông vẫn theo dõi tin tức và đóng góp ý
kiến. Do ông phải đi chữa bệnh ở xa, ông Tôn Đức Thắng được cử giữ chức
Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Hòa bình lập lại ông về Hà Nội
dưỡng bệnh.
Ngày 13 tháng 4 năm 1955, ông qua đời tại Hà Nội khi được Hồ mừng thọ
với chiếc áo lụa vì sau nhiều năm bị bạo bệnh bán thân bất toại ở chiến
khu Việt Bắc của bác Hồ- không chịu chết!
5) Đức Thầy Cao Triều Phát: Sau ngày đình chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi điện mời nhân sĩ yêu nước Cao Triều Phát ra bắc. Từ Cà Mau cụ Cao đi
Phụng Hiệp, đáp máy bay lên Sài Gòn rồi ra Hà Nội. Sau đó, theo đường
bộ lên Thái Nguyên. Một ngày thu năm 1954, giữa núi rừng Đại Từ, hai nhà
yêu nước vui mừng gặp nhau lần đầu, cùng uống rượu đào ngâm thơ chào
mừng kháng chiến thắng lợi...
Tết năm 1955, Hồ và các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng mời các
nhân sĩ trí thức miền nam đến Phủ Chủ tịch dùng cơm... không lâu, ngày
9-9-1956, Cao Triều Phát từ trần vì bạo bệnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ
tịch Tôn Đức Thắng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng... đã đến tận giường bệnh
thăm viếng chia buồn cùng gia đình...
6) Linh Mục Phạm Bá Trực: Năm 1946 trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I,
ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Thường trực Quốc hội vào tháng 3
năm 1946.
Tháng 5 năm 1947, linh mục Trực được bầu là Phó Ban Thường trực Quốc hội
tương đương Phó Chủ tịch Quốc hội hiện nay. Năm 1951, tại Đại hội thống
nhất Việt Minh- Liên Việt được cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Liên Việt
toàn quốc và Ủy viên Hội Hữu nghị Việt – Hoa.
Linh mục Phạm Bá Trực mất vì bệnh tim ngày 5 tháng 10 năm 1954 tại Đại
Từ, Thái Nguyên. Lễ tang của của ông được tổ chức theo nghi lễ quốc
gia]. Trong lễ truy điệu ông có 3 điếu văn và điếu văn của chủ tịch Hồ
Chí Minh viết do Bộ trưởng Phan Anh thay mặt ông Hồ đọc lời điếu.
Qua sáu nhân vật hợp tác, tham gia trong chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến của Hồ Chí Minh bị chết vừa kể, chỉ có phó bảng Đặng Văn Hướng bị đấu tố, tố điêu giết chết trong cải cách ruộng đất. Năm người còn lại chết vì bạo bệnh liên quan đến tim mạch, là dấu hiệu của bị đầu độc và Trung Quốc là “đế chế” của độc dược. Thế cho nên chuyện các nhân sĩ, tu sĩ, trí thức yêu nước bị đội sát thủ của quốc tế cộng sản, của tình báo Hoa Nam, của Hồ Chí Minh hạ độc để cho Hồ thu tóm quyền lực thực thi nhiệm vụ quốc tế cộng sản và những người yêu nước hợp tác với Hồ bị hạ độc thủ bằng thuốc độc được củng cố qua lời tiết lộ của cán bộ cộng sản Hoàng Mạnh Đức, trưởng ban huấn luyện quân báo Liên khu 5, là cụ Huỳnh Thúc Kháng, sau khi đóng trọn vai trò bù nhìn bung xung, đã được cộng sản đưa về Quảng Ngãi dưỡng bệnh rồi chích thuốc thủ tiêu để diệt khẩu vào năm 1947.
(Đón Đọc số tới để biết tại sao Hồ Chí Minh tới năm 1955 vẫn chưa dám nhận là Nguyễn Ái Quốc?)
No comments:
Post a Comment