Vì vậy, khi tôi nhớ ngày 30 tháng Tư, 1975, tôi cũng sẽ nhớ ngày 11
tháng Mười Một, 1918 và những gì xảy ra khi Mỹ tự cô lập với thế giới.
Nhưng tôi cũng sẽ nhớ niềm tự hào tôi đã cảm thấy khi tôi ngồi trong
những buổi họp lưỡng viện Quốc Hội lắng nghe Vaclav Havel, Kim Dae Jung,
Lech Walesa và Nelson Mandela cảm ơn những người Mỹ đã hy sinh rất
nhiều cho tự do của họ.
Bức hình nổi tiếng về những người Miền Nam Việt Nam leo lên cầu thang để
lên đến trực thăng đáp trên nóc nhà tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn là biểu
tượng cho cả xấu hổ lẫn danh dự của chúng ta. Xấu hổ là chúng ta cuối
cùng quay lưng lại với Việt Nam và với sự hy sinh của hơn 58.000 người
Mỹ.
Chúng ta buông xuôi trước mệt mỏi và thiếu tự tin, chúng ta không giữ
lời hứa ủng hộ người Miền Nam Việt Nam, cho nên cộng sản mới có thể đánh
bại các đồng minh chúng ta.
Danh dự là trong khi Sài Gòn sụp đổ, chúng ta đã cứu được hàng ngàn
người bạn Miền Nam Việt Nam của mình, và trong những năm sau đấy chúng
ta đã chào đón hơn một triệu người Việt nữa đến đất nước chúng ta.
Chiến tranh đã dạy cho người trai trẻ học vấn đại học từ miền trung Mỹ
vốn lạc quan nhiều bài học giá trị. Chuyến đi Việt Nam của tôi giúp tôi
cảm nhận được thế giới rất rộng lớn và muôn vẻ của chúng ta. Tôi cũng đã
kinh ngạc trước một điều mà hôm nay vẫn còn làm cho tôi xúc động: người
Mỹ sẵn sàng liều chết cho tự do của người khác. Ở Bệnh viện Hải Quân
Philadelphia tôi biết mọi người- ngay cả tôi- đều cần đến lòng tốt của
người Mỹ.
Trong chiến tranh, tôi biết chiến đấu cho tự do là lý do chủ yếu chúng
tôi hiện diện ở Việt Nam. Nhưng sau chiến tranh, tôi trở nên tức giận
khi tôi biết nhiều hơn về quá trình đưa ra những quyết định quan trọng
của chính quyền. Tôi giận là họ đã không biết gì về những động cơ của kẻ
thù Bắc Việt của chúng ta và lịch sử Việt Nam.
Các nhà lãnh đạo của chúng ta dường như không hiểu quyết tâm cao độ của
kẻ thù của chúng ta nhằm tạo ra một nước Việt Nam độc lập theo cách họ.
Tôi rất ghét Tổng thống Nixon vì sự tráo trở của ông trong cuộc tranh cử
với lời hứa kết thúc chiến tranh nhưng rồi, một khi đương chức, lại mở
rộng chiến tranh sang Cambodia. Nhưng thời gian dạy tôi rằng tức giận
cũng vô ích. Vì thế, mới đây tôi bảo cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert S.
McNamara, tôi tha thứ các nhà lãnh đạo của chúng ta trong thời kỳ Việt
Nam.
Tôi có thể tha thứ, không phải do tôi rất rộng lượng gì mà vì thời gian
trôi qua và những hành động của chính quyền cộng sản Việt Nam chứng tỏ
cho tôi thấy chúng ta đã chiến đấu cho lẽ phải. Qua cách họ đối xử hà
khắc với người dân Việt Nam, qua việc không cho phép người dân có thuốc
men và những hàng hóa tiêu thụ thiết yếu, và qua việc đàn áp các hoạt
động tôn giáo, cộng sản Việt Nam trong thời hậu chiến đã chứng tỏ họ
chính là cộng sản.
Lời bình luận hùng hồn nhất về đời sống dưới thời cai trị của những kẻ
kế thừa Hồ Chí Minh là cuộc trốn chạy của hàng triệu người Việt Nam thà
liều chết trên đại dương còn hơn sống dưới chế độ ấy.
Giá như có phiên
tòa để quyết định liệu chiến tranh Việt Nam có đáng tham chiến, tôi sẽ
gọi Thuyền Nhân ra làm nhân chứng duy nhất của tôi.
Phải chăng cuộc chiến tranh này xứng đáng với bao nỗ lực và hy sinh ấy,
hay phải chăng cuộc chiến ấy là sai lầm? Những ai bị cuộc chiến này chạm
đến phải tự mình trả lời câu hỏi ấy. Khi tôi về nước vào năm 1969 và
suốt trong nhiều năm về sau, tôi đã không tin chiến tranh ấy xứng đáng.
Ngày nay, theo thời gian trôi qua và cùng với bao trải nghiệm về việc
nhìn thấy những lợi ích của tự do đạt được nhờ sự hy sinh của chúng ta
và sự hủy diệt con người do các chế độ độc tài gây ra, tôi tin sự nghiệp
ấy là chính nghĩa và hy sinh ấy không phải là hoài phí.
Bob Kerry là thượng nghị sĩ dân chủ Hoa Kỳ thuộc bang Nebraska. Ông từng
được trao Huân chương Danh dự cho sự phục vụ của ông tại Việt Nam.
Nguồn: Dịch từ báo Star-News số ra ngày 5 tháng Năm, 2000. Tựa đề của người dịch. Tựa đề nguyên tác “Was Vietnam War worth it?”
No comments:
Post a Comment