Bối cảnh lịch sử
Năm 1956, tại Đại hội 20 Đảng cộng sản Liên Xô, Bí thư thứ nhất Nikita
Khrushev đã đọc báo cáo quan trọng về chống tệ sùng bái cá nhân Stalin
và chủ trương “cùng tồn tại trong hoà bình” giữa hai hệ thống cộng sản
và tư bản. Đường lối mới đã được hầu hết các đoàn đại biểu tán đồng tại
Đại hội các đảng cộng sản và công nhân quốc tế họp tại Moskva với 81
thành viên tham dự năm 1960.
Đoàn đại biểu Đảng Lao Động (Cộng sản) Việt Nam (viết tắt theo tên mới
ĐCSVN) do Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh cùng với Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và
các ủy viên Bộ Chính trị Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh tham dự đã ký
vào bản Tuyên bố chung Hội nghị trên. Đường lối mới này đã bị Đảng cộng
sản Trung Quốc (ĐCSTQ) kịch liệt lên án, gọi là “Chủ nghĩa xét lại hiện
đại”.
Sự thay đổi trong nhận định về quan hệ quốc tế đã phân hoá nội bộ một số
đảng cộng sản. Trong ĐCSVN cũng xuất hiện hai luồng quan điểm khác
nhau. Một bên ủng hộ “cùng tồn tại trong hoà bình”, phản đối sự rập
khuôn đường lối giáo điều tả khuynh của ĐCSTQ, mở rộng dân chủ trong
đảng cũng như trong xã hội, chủ trương hòa bình thống nhất đất nước,
phát triển kinh tế đa thành phần.
Bên kia, theo đường lối của ĐCSTQ, chủ trương chống “chủ nghĩa xét lại
hiện đại”, duy trì xã hội chuyên chính phi dân chủ, đẩy mạnh cải cách xã
hội chủ nghĩa, xóa bỏ hoàn toàn cơ chế kinh tế thị trường, kiên định
chủ trương thống nhất đất nước bằng bạo lực.
Cuộc đấu tranh trong nội bộ diễn ra âm thầm nhưng căng thẳng đã kết thúc
bằng nghị quyết của Hội nghị Trung ương 9 ĐCSVN họp năm 1963, đi ngược
lại Tuyên bố chung Maskva 1960 đã được đoàn đại biểu Việt Nam long trọng
ký kết. Nghị quyết 9 (phần đối ngoại), về thực chất là bản sao đường
lối của ĐCSTQ đã khởi đầu cho cuộc trấn áp những đảng viên bất đồng
chính kiến bị chụp mũ “chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Cần lưu ý là Chủ
tịch Hồ Chí Minh không tham gia biểu quyết nghị quyết này.
Toàn văn Nghị quyết 9 được giữ trong tình trạng tuyệt mật, nhưng nội
dung tinh thần được phổ biến cho các đảng viên và trí thức. Vì có quá
nhiều tranh cãi nội bộ nên Đảng tuyên bố cho phép bảo lưu ý kiến khác
biệt. Thái độ cởi mở này chỉ là biện pháp để phát hiện những người không
tán thành.
Nhiều ý kiến bất đồng được biểu lộ công khai như những bài viết của các
ông Hoàng Minh Chính - Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin, ông Trần
Minh Việt, phó Bí thư Thành ủy kiêm phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành
phố Hà Nội. Những tâm thư của nhiều đảng viên lão thành gửi đến Bộ
Chính trị, phản đối đường lối đối ngoại thân Trung Quốc, tranh luận về
đường lối giải phóng miền Nam bằng bạo lực, nóng vội trong cải tạo kinh
tế xã hội chủ nghĩa và tất cả các ý kiến phát biểu trái chiều tại các
cuộc học tập đều được thu thập để rồi trấn áp khốc liệt vào cuối năm
1967.
Diễn biến sự kiện
ĐCSVN gọi tắt vụ án này là “Vụ Xét lại chống Đảng” diễn ra năm 1967,
nhưng đến tháng 3 năm 1971 mới báo cáo Bộ Chính trị, tháng 1 năm 1972
mới đưa ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 20 (khóa III). Theo ông
Nguyễn Trung Thành (vụ trưởng Vụ Bảo vệ đảng thuộc Ban tổ chức Trung
ương) là người trực tiếp thi hành thì Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và ủy viên
Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Lê Đức Thọ nhân danh
Bộ Chính trị chỉ đạo việc bắt giữ và giam cầm.
Chiến dịch khủng bố đã bắt đầu vào ngày 27 tháng 7 năm 1967 và kéo dài
bằng các cuộc bắt bớ, giam cầm, quản chế nhiều năm các cán bộ trung cao
cấp mà không hề xét xử hay tuyên án.
Những người bị giam cầm nhiều năm gồm có:
- Hoàng Minh Chính tổng thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam, tổng thư ký Hội Liên hiệp Thanh
niên Việt Nam, viện trưởng Viện Triết học.
- Đặng Kim Giang, thiếu tướng phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Quân đội, thứ trưởng Bộ
Nông Trường.
- Vũ Đình Huỳnh bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vụ trưởng vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao, vụ
trưởng Ban thanh tra Chính phủ .
- Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục 2 (Cục Tình báo quân đội).
- Lê Minh Nghĩa, chánh văn phòng Bộ Quốc phòng.
- Đỗ Đức Kiên, đại tá cục trưởng Cục tác chiến.
- Hoàng Thế Dũng, tổng biên tập Báo Quân đội Nhân Dân.
- Đinh Chân, nhà báo, Báo Quân đội Nhân Dân.
- Nguyễn Kiến Giang, tỉnh ủy viên tỉnh ủy Quảng Bình, phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật.
- Trần Minh Việt phó bí thư Thành ủy Hà Nội, phó Chủ tịch Ủy Ban Hành
Chính thành phố Hà Nội. Vụ trưởng vụ Tài vụ Bộ Công nghiệp nhẹ.
- Phạm Viết phó tổng biên tập Báo Thời Mới (sau sáp nhập vào tờ Thủ đô Hà Nội thành tờ Hà Nội Mới).
- Nguyễn Thị Ngọc Lan, giảng viên tiếng Anh, Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, vợ ông
Phạm Viết.
- Phạm Kỳ Vân phó tổng biên tập Tạp chí Học Tập.
- Trần Thư, tổng thư ký báo Quân Đội Nhân Dân.
- Hồng Sĩ, trung tá Công an, đặc trách công tác phản gián, Hải Phòng.
- Trần Châu nhà báo, Việt Nam Thông tấn xã.
- Lưu Động nhà báo, trưởng ban Nông nghiệp Báo Nhân Dân.
- Vũ Thư Hiên nhà báo, báo Ảnh Việt Nam, (con trai cả ông Vũ Đình Huỳnh, không đảng).
- Huy Vân, đạo diễn điện ảnh.
- Phan Thế Vấn, bác sĩ, nguyên cán bộ nội thành Hà Nội.
- Vũ Huy Cương biên kịch điện ảnh (không đảng).
- Nguyễn Gia Lộc, cán bộ nghiên cứu Viện Triết học.
- Phùng Văn Mỹ, cán bộ nghiên cứu Viện Triết học.
- Bùi Ngọc Tấn, nhà báo (không đảng).
… và nhiều người khác không phải đảng viên cũng bị đảng Cộng sản Việt Nam trấn áp với nhiều mức độ khác nhau.
Những cán bộ cấp cao không bị bắt nhưng bị khai trừ Đảng là:
- Ung Văn Khiêm bộ trưởng bộ Ngoại giao.
- Bùi Công Trừng chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.
- Nguyễn Văn Vịnh thứ trưởng bộ Quốc phòng.
- Lê Liêm thứ trưởng bộ Văn hóa.
- Minh Tranh, phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật.
Một số người đang học tập, công tác ở Liên Xô đã ở lại tỵ nạn như:
- Lê Vinh Quốc đại tá Chính ủy sư đoàn 308
- Nguyễn Minh Cần phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố Hà Nội
- Đỗ Văn Doãn tổng biên tập Báo Quân đội Nhân Dân.
Nhiều người không bị bắt giam đã bị đày ải, trù dập như các ông:
- Minh Tranh phó giám đốc Nhà Xuất bản Sự Thật,
- Các nhà báo Đặng Đình Cẩn, Mai Hiến, Trần Đĩnh, Mai Luân
… Và rất nhiều người khác nữa.
Trong cuộc trấn áp được mở rộng, bất kỳ người nào có quan điểm ít nhiều
khác với đường lối của đảng, đều bị quy kết là “xét lại” và bị trừng
phạt với những mức độ khác nhau.
Sự trừng phạt nặng nề còn tiếp diễn vào cuối thập niên 90 đối với ông
Nguyễn Trung Thành, người trực tiếp thụ lý vụ này khi ông cùng ông Lê
Hồng Hà (Chánh văn phòng Bộ Công an) viết kiến nghị đề nghị Bộ Chính trị
xem xét giải oan cho các nạn nhân.
Những năm tháng tù đầy oan ức và hệ luỵ
Người được coi là “đầu vụ” là ông Hoàng Minh Chính. Ông bị qui tội vì đã
gửi cho hội nghị Trung ương hai bản kiến nghị, bản thứ nhất phê phán Bộ
Chính trị đã từ bỏ nguyên tắc đồng thuận với bản Tuyên bố Moskva 1960,
bản thứ hai phê phán đường lối quốc tế sai trái của Trung ương đảng Cộng
sản Trung Quốc. Lần đầu, ông bị bắt tù 6 năm rồi quản chế tại gia. Lần
thứ hai ông bị bắt giam từ 1981 đến 1987. Lần thứ ba từ 1995 đến 1996.
Tổng cộng ông bị 12 năm tù giam và 8 năm quản chế. Là một sĩ quan thương
binh, trong thời gian đó, ông phải chịu nhục hình và những hành vi xúc
phạm nhân phẩm.
Các ông Đặng Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh bị qui là hai người trong “ba kẻ
đầu vụ”. Cả hai cùng với ông Trần Minh Việt,… bị giam 6 năm và chịu thêm
3 năm lưu đầy biệt xứ, ở những địa phương khác nhau. Khi bị bắt, họ bị
giam tại xà lim Hỏa Lò, bị cùm chân và trong phòng giam không có ánh
sáng. Nơi giam cầm các ông trong nhiều năm đều là các khu biệt giam,
không được giao tiếp với bất kỳ ai.
Ông Đặng Kim Giang cũng bị bắt lần thứ hai năm 1981, trên đường đi đến
khu biệt giam ở Nam Định thì lên cơn nhồi máu cơ tim phải đưa thẳng vào
bệnh viện công an và bị giam giữ tại đây cho đến khi bệnh tình nguy
kịch, trả về nhà một thời gian thì mất.
Người bị giam lâu thứ hai là ông Vũ Thư Hiên, với 9 năm giam liên tục
trong các nhà tù và trại tập trung, có những năm bị giam chung với tù
hình sự.
Ông Phạm Viết, năm 1967 đang nghỉ công tác dài hạn để điều trị bệnh tim
thì bị bắt, giam vào xà lim Hỏa Lò. Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, vợ ông Viết
người từng bị bắt 3 lần khi hoạt động nội thành Hà nội trong kháng chiến
chống Pháp, là người phụ nữ duy nhất trong vụ này đã bị tù 2 năm rưỡi
vì tội không giao nộp bản luận văn phó tiến sĩ “Về chủ nghĩa giáo điều ở
Việt Nam” của ông Trần Minh Việt viết tại trường đảng Liên Xô. Bản này
lúc đó bị vu cho là “bản cương lĩnh chính trị của tổ chức chống Đảng.”
Thương tâm nhất trong vụ này là ông Phạm Kỳ Vân, phó tổng biên tập tạp
chí Học Tập. Ông Kỳ Vân bị bắt khi đang điều trị sơ gan cổ chướng, bệnh
tình trở nên trầm trọng, ông được tha về để chết. Vợ ông bị chết đuối,
con gái đi Thanh niên Xung phong hy sinh trên đường Trường Sơn, con gái
khác chết khi sinh nở. Người con trai út tuyệt vọng treo cổ tự vẫn. Cả
gia đình không một người nào còn sống.
Còn rất nhiều người khác bị trấn áp theo nhiều cách khác nhau mà chúng
tôi không thể kể ra hết: bị quản thúc với những cấm đoán ngặt nghèo, bị
đưa đi cải tạo lao động, bị tước quyền công dân, tước bỏ các chính sách
đãi ngộ. Họ bị đuổi khỏi cơ quan, đơn vị công tác và còn bị cấm họ làm
cả những nghề kiếm sống thông thường như sửa chữa máy thu thanh, làm
việc trong các cơ sở in ấn, sửa chữa đồng hồ, kể cả chữa xe đạp hay cắt
tóc.
Ban tổ chức Trung ương còn có chủ trương phân biệt đối xử với con em,
gia đình những người bị đàn áp: không được kết nạp vào đảng, không được
đề bạt lên vị trí quản lý, không được học các trường đại học được coi là
quan trọng, ngoài các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thư
viện…, không được cử đi công tác học tập nước ngoài, không được phân
công về công tác tại Hà Nội và làm việc tại các bộ ngành trung ương, cơ
quan quan trọng.
Hàng trăm lá đơn khiếu oan, về thực chất là những thư tố cáo đã được gửi
tới các cơ quan công quyền cao nhất của nhà nước và đảng cộng sản trong
suốt 50 năm qua, yêu cầu xét xử trước một phiên tòa công minh, đòi công
khai vụ việc trước dư luận, bồi thường cho những thiệt hại về vật chất,
tổn thương về tinh thần, phục hồi danh dự cho các nạn nhân… Tất cả
những đòi hỏi chính đáng ấy chỉ được trả lời bằng sự im lặng.
Nhận định của những nạn nhân còn sống và thế hệ kế tiếp
50 năm đã trôi qua kể từ khi những nạn nhân đầu tiên của vụ “xét lại
chống Đảng” bị bắt ngày 27 tháng 7 năm 1967. Các ông Dương Bạch Mai, Ung
Văn Khiêm, Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh,
Đặng Kim Giang và nhiều người khác đã qua đời, mang theo đau thương và
uất hận. Những người gây ra tấn thảm kịch lớn nhất trong lịch sử đảng
cộng sản Việt Nam – Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn, Trường Chinh…
cũng đã chết.
Liên Xô, và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã tan rã. Trung Quốc và
Việt Nam tuy danh xưng là xã hội chủ nghĩa nhưng trong thực tế đang
đương đầu với các thách thức của giai đoạn tư bản bán khai, trước mọi tệ
nạn như hối mại quyền thế, tham nhũng, lạm dụng luật pháp, chênh lệch
giàu nghèo, vi phạm quyền dân chủ,… chưa từng có.
Vụ “Xét lại chống Đảng” cũng như nhiều vụ án oan đã xảy ra trong quá khứ
như: Cải cách ruộng đất, Nhân văn - Giai phẩm, Cải tạo tư bản tư doanh,
Hợp tác hóa, tập trung cải tạo những người tham gia quân lực và chính
quyền Việt Nam Cộng hòa… chưa được các thế hệ cầm quyền kế tiếp chính
thức sửa sai và nghiễm nhiên cho rằng việc xử lý trước đây là đúng.
50 năm là một thời gian quá dài cho những oan ức và bất công. Khi sự
kiện này xảy ra, những người cầm quyền hiện nay còn quá trẻ, thậm chí có
người còn chưa ra đời, hiển nhiên không phải là thủ phạm nhưng họ không
thể phủi tay cho rằng mình không có trách nhiệm giải quyết những vụ
việc xảy ra trong quá khứ. Là chính quyền kế thừa, họ phải có trách
nhiệm với những việc còn tồn tại theo đúng pháp luật, sòng phẳng với
lịch sử. Đó là điều phải làm nếu họ còn có ý muốn xây dựng một nhà nước
pháp quyền và lấy lại niềm tin của nhân dân.
Bà Nguyễn Thị Mỹ, phu nhân ông Đặng Kim Giang, bà Lê Hồng Ngọc, phu nhân
ông Hoàng Minh Chính, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, phu nhân ông Phạm Viết,
người phụ nữ duy nhất bị tù trong vụ này, ông Vũ Thư Hiên, ông Phan Thế
Vấn và nhiều nhân chứng khác còn sống trong vụ này hiện đều đã ở tuổi
gần đất xa trời. Những nhân chứng cuối cùng rồi cũng sẽ không còn, nhưng
ký ức về vụ trấn áp sẽ còn sống mãi với thời gian.
Lịch sử không thể bị tẩy xoá.
Con cháu những nạn nhân đó dù chỉ là những đứa trẻ khi cha anh bị bắt,
chẳng biết “xét lại” là gì, nhưng cũng nếm đủ những khổ cực của cuộc
trấn áp tàn bạo nhắm vào thành viên gia đình những người không chịu cúi
đầu. Đến nay, họ cũng đã về già nhưng mãi mãi không thể nào quên được
những năm tháng đau thương ấy.
Cho tới nay chúng tôi vẫn còn như thấy trước mắt hình ảnh tướng Đặng Kim
Giang, chỉ huy hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ, nằm trong chiếc quan
tài hở hoác dưới ngôi nhà tranh dột nát ở ngõ Chùa Liên Phái. Bà vợ ông
vừa khóc vừa giã gạch non trộn với cơm nếp, trát kín những kẽ hở của
chiếc quan tài ấy.
Chúng tôi không thể quên hình ảnh ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên Bí thư của
chủ tịch Hồ Chí Minh, thành viên Việt Nam Cách mạng Đồng chí hội từ năm
1925, trước khi ĐCSVN ra đời, bị công an dùng dây thừng trói giật cánh
khuỷu khi còng sắt bập vào cổ tay ứa máu mà không vừa. Khi đó ông đã về
hưu được vài năm.
Chúng tôi không thể quên nấm mồ của ông Phạm Viết, nằm cô quạnh trên
sườn đồi heo hút ở cạnh nhà tù Phú Sơn, Thái Nguyên. Ông là người sỹ
quan thương binh đã chiến đấu nhiều năm quên mình trong nội thành Hà
Nội. Ở tuổi 44, ông lìa đời mà không được có một người thân bên cạnh dù
vợ con đã khẩn thiết yêu cầu được chăm sóc ông những ngày cuối đời.
Chúng tôi mãi mãi không thể quên những gì đã thấy, đã biết, đã ghi nhớ.
Và nhân đây chúng tôi cũng muốn gửi tới rất nhiều người đã đồng cảm và
giúp đỡ chúng tôi trong suốt nửa thế kỷ qua lời cảm ơn chân thành. Sự
chia sẻ trong tình người dù âm thầm hay công khai đã giúp chúng tôi có
thêm nghị lực sống.
Bản lên tiếng này cũng là một nén hương muộn cho những nạn nhân đã
khuất. Nhưng máu thịt của họ, tinh thần của họ vẫn còn đây, trong chúng
tôi.
Chúng tôi cũng gửi bản lên tiếng này tới các vị đứng đầu Đảng và Nhà
nước để nói rằng những thế hệ nối tiếp của các nạn nhân trong “vụ Xét
lại chống Đảng” sẽ còn tiếp tục lên tiếng cho tới khi vụ này được công
khai trước toàn dân, cho tới khi lẽ công bằng được lập lại cho những nạn
nhân còn sống và đã khuất.
Trước sau, lịch sử sẽ phán xét một cách công bằng.
Hà Nội, ngày 27.7.2017
Dưới đây là danh sách những nạn nhân còn sống và gia đình cũng như thân
nhân các nạn nhân đã khuất cùng ký tên vào bản lên tiếng này. Danh sách
này còn kéo dài do không có điều kiện liên hệ trực tiếp.
- Bà Nguyễn Thị Mỹ, phu nhân ông Đặng Kim Giang và gia đình.
- Bà Lê Hồng Ngọc, phu nhân ông Hoàng Minh Chính và gia đình.
- Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, phu nhân ông Phạm Viết và gia đình
- Bà Đinh Thị Bích Đào, phu nhân ông Phùng Văn Mỹ và gia đình.
- Bà Nguyễn Thị Oanh, phu nhân ông Lưu Động (tên thật là Nguyễn Xuân Canh) và gia đình.
- Ông Vũ Thư Hiên, con trai ông Vũ Đình Huỳnh và gia đình.
- Ông Phan Thế Vấn và gia đình.
- Ông Trần Đĩnh và gia đình
- Ông Trần Việt Trung, con trai ông Trần Châu và gia đình.
- Bà Minh Sơn, con gái ông Trần Minh Việt và gia đình
- Nguyễn Thị Giáng Hương, con gái ông Trần Thư và gia đình.
…………………
Nơi gửi :
Gửi tới mọi người Việt Nam và các ông, bà :
- Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam
- Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
- Ông Trần Đại Quang, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam,
- Ông Nguyến Xuân Phúc, Thủ tướng chính phủ nước CHXHCN Việt Nam.
No comments:
Post a Comment