Người phản bội quân đội của mình
Năm 1951, sau đại hội
thành lập Đảng Lao Động, tức là đại hội toàn quốc lần 2, cố vấn La Quý
Ba thay đổi vị trí trong nhóm lãnh đạo Việt Minh, từ Hồ Chí Minh tới Võ
Nguyên Giáp hay tư lệnh Đại đoàn như Vương Thừa Vũ, Cao Văn Khánh;
Trung đoàn trưởng như Nguyễn Hữu An, Đặng Vũ Hiệp, Lê Trọng Nghĩa v.v…Và
ngay tới tận cùng của quân đội là cấp chiến sĩ cũng rơi vào một cuộc
đổi mới, tổng sắp xếp theo thứ tự mới; mà thứ tự mới này do cán bộ
Trung Quốc đặt ra.
Vì cần dành các vị trí chỉ huy cho cán bộ
Cọng sản cho nên người ta tìm cách buộc những người đang chỉ huy trong
quân đội Việt Minh nhưng không phải là đảng viên CS phải rời bỏ chức
vụ. Tuy nhiên người ta không thể nói rõ là cần những vị trí đó cho
người của Đảng cho nên người ta phải tìm cách gièm pha, gieo tiếng xấu
cho những vị chỉ huy rồi mới lấy cớ đó mà cách chức chứ thực ra những
người này không có lỗi gì cả.
Một cách thức phổ biến nhất là trong các
buổi học tập chỉnh huấn các tay đảng viên hè nhau “đấu tố” đối tượng đủ
mọi thứ tội, kể cả tội trên trời dưới đất, rồi buộc những người này phải
đứng lên nhận lỗi, không nhận lỗi thì họ tiếp tục “đấu” cho đến khi
nhận. Nhận rồi thì đối tượng phải tự đề ra mức kỷ luật cho chính mình;
hoặc là tự nguyện từ chức hoặc là “xin để tập thể quyết định”; nhưng
hễ tập thể quyết định thì y như rằng tập thể sẽ biểu quyết yêu cầu từ
chức.
Hồi ký của Võ Nguyên Giáp cho thấy thành phần bị loại khỏi các chức vị chỉ huy là cả một thế hệ nhân tài của dân tộc Việt Nam: “Anh Thanh (Nguyễn Chí Thanh) cho rằng phần lớn cán bộ sơ cấp, trung cấp của ta (tiểu đội trưởng, trung đội trưởng và đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng)
xuất thân từ tầng lớp Tiểu tư sản học sinh, chỉ mới giác ngộ về dân
tộc, còn ít giác ngộ giai cấp nên thiếu kiên định. Trọng tâm đợt chỉnh
huấn này, nên nhằm vào cán bộ” (Đường tới Điện Biên, in lần 2, trang
210).
Tất cả các cán bộ chỉ huy cấp trung đội,
đại đội, tiểu đoàn là những người xuất sắc nhờ có kiến thức. Những người
này được tinh lựa trong hàng ngũ binh sĩ mà lên; vị trí chỉ huy của họ
do được mọi người trong đơn vị tin tưởng mà đề cử ra. Nhưng một điều trớ trêu là họ xuất sắc nhờ họ có học, nhưng sự có học của họ lại do vì xuất thân là con nhà tư sản.
Mà theo chỉ đạo của cố vấn La Quý Ba thì từ nay họ bị loại khỏi địa vị
chỉ huy, thay vào đó là những anh Chí Phèo xuất thân bần cố nông thất
học.
Hồi ký của Võ Nguyên Giáp cũng đã thú nhận thảm trạng do chỉnh huấn gây ra vào mùa hè năm 1951: “Có
điều nên nói là trong chỉnh huấn chúng ta đã tiếp nhận từ những cố vấn
về giáo dục chính trị một cách làm khác: coi kiểm điểm tư tưởng là một
cuộc đấu tranh không khoan nhượng với mọi sai lầm…
Những buổi kiểm điểm thường diễn ra
căng thẳng với những lời phê phán “đao to búa lớn” nhiều khi gò ép. Có
người sợ bị coi là thiếu thành khẩn đã tự nhận những tội lỗi mà mình không hề mắc…
Ở Đại đoàn X, một cán bộ tiểu đoàn rất anh dũng trong chiến đấu, tự
nhận mình là gián điệp của địch! Khi bị tra hỏi, anh ta khai ra hàng
loạt sự việc có liên quan đến những cán bộ khác. Tổ chức mất rất nhiều
thời giờ mới xác định được những điều anh “phản tỉnh” đều là do óc tưởng
tượng…” (Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 212).
Trong cuộc chỉnh huấn này có Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 biệt lập là Trần Văn Xướng
đã bị thanh toán vì bị tình nghi làm điệp viên cho Pháp, mặc dầu Trung
đoàn 42 được các sĩ quan Pháp đặt tên là “Trung đoàn ma”, bởi vì Trung
đoàn này hoạt động rất mạnh tại vùng Hưng Yên, Ninh Bình nhưng không bao
giờ đại quân Pháp được hân hạnh chạm súng, Trung đoàn 42 thoát các cuộc
bao vây của đại quân Pháp rất dễ dàng, và sau đó nhanh chóng tập trung
tấn công các đồn nhỏ ngay sau khi đại quân Pháp vừa rút đi.
Nguyên do Trần Văn Xướng bị kết tội là
điệp viên cho Pháp là vì trong cuộc kiểm thảo ông đã thành thực khai
rằng ông xuất thân là một sinh viên sĩ quan của Pháp, năm 1945 khi quân
Pháp bị quân Nhật tấn công thì Thiếu úy Trần Văn Xướng cùng với Thiếu úy
Trần Văn Đôn theo toán quân Pháp chạy tới biên giới Việt Hoa. Tại đây
chỉ huy trưởng của đoàn quân Pháp là Đại tá Carbonel chỉ thị cho Xướng
và Đôn trở lại Việt Nam để làm công tác tình báo cho toán quân Pháp
kháng Nhật tại Trung Hoa. Tuy nhiên sau đó cả hai ông đều chấm dứt làm
việc cho quân đội Pháp và trở về quê.
Ông Đôn về Sài Gòn sau đó xin tham gia
quân đội Việt Minh nhưng không được. Còn ông Xướng về lãnh đạo cướp
chính quyền tại Hưng Yên, lấy được một số súng của quân đội chính phủ
Trần Trọng Kim và một số súng Pháp do quân Nhật cất giữ trong các kho
của quân đội Nhật. Nhờ số súng này mà thành lập được Trung đoàn 42 của
Việt Minh.
Năm 1951 Nguyễn Chí Thanh nhận được bản
kiểm thảo của Trần Văn Xướng nói rõ ông xuất thân là một sĩ quan của
quân đội Pháp và lúc quân Pháp chạy sang Trung Hoa thì ông nhận được chỉ
thị ở lại để hoạt động tình báo cho quân đội Pháp (Tức là làm tình báo
chống lại Nhật chứ không phải làm tình báo chống Việt Minh vì thời đó
chưa có Việt Minh ).
Bản tự kiểm thảo của Trần Văn Xướng trùng
hợp với một số kiểm thảo khác cũng xác nhận là được Pháp gài vào tổ
chức Việt Minh để làm gián điệp. Thế là Trần Văn Xướng cùng với hàng
loạt cán bộ chỉ huy cấp trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng bị giết hại.
Sau này hồi ký của Võ Nguyên Giáp xác nhận là tất cả bị giết oan
do một ông tiểu đoàn trưởng bị sức ép tâm lý quá nặng nên bị bệnh tâm
thần khai tầm bậy. Tuy nhiên không có gì chắc chắn là Võ Nguyên Giáp nói
thật, bởi vì có thể đó chỉ là cái cớ để thanh toán các cấp chỉ huy xuất
thân từ các trường võ bị của quân đội Pháp, xong rồi đổ lỗi cho một
người bị bệnh tâm thần.
Riêng ông Trần Văn Xướng đã xuất hiện trong hồi ký của Tướng Trần Văn Đôn: “Năm
1944 tình hình càng khẩn trương, tôi bị đưa ra thụ huấn khóa sĩ quan
hiện dịch tại Tong, gần Sơn Tây. Trường này mới thành lập được hai
khóa. Khóa sinh viên sĩ quan thứ hai của tôi chỉ có 10 sĩ quan khóa
sinh, trong đó có hai sinh viên gốc Việt Nam là tôi và Trần Văn Xướng…
Mỗi buổi chiều, sau khi tập cưỡi ngựa
bắn súng, các khóa sinh ra sân tập thể dục, đến 6 giờ làm lễ xuống cờ,
toàn thể khóa sinh và huấn luyện viên đứng thẳng tại chỗ nghiêm chỉnh
chào lá cờ tam sắc từ từ kéo xuống. Một hôm khi tiếng kèn chấm dứt, cờ
được tháo khỏi giây, tôi quay nhìn lại thấy hai hàng nước mắt của Xướng
lăn trên má vội hỏi nguyên do. Anh Xướng trả lời vắn tắt nhưng rất ý
nghĩa: Anh Đôn ơi! Ngày nào lá cờ mình chào mỗi ngày kia là cờ của
nước Việt Nam mình!
Nghe Xướng nói, tình quốc gia dân
tộc sống dậy trong tâm hồn tôi. Phải! Mình là người Việt Nam, sao hằng
ngày phải chào cờ Pháp. Tôi nhớ tới những kỷ niệm về rừng người tràn
ngập bến tàu gần hai mươi năm về trước trong buổi đón rước nhà ái quốc
Bùi Quang Chiêu. Tôi nhớ tới đoàn người dài dằng dặc trong buổi đám
tang nhà cách mạng Phan Châu Trinh.
Bao nhiêu người đã tranh đấu mà giờ
này nước Việt Nam cũng chưa có được một lá cờ! Chưa có lá cờ có nghĩa
như nước Việt Nam chưa được hiện diện trên thế giới này. Tôi đau xót,
tôi xúc động. Tôi thầm cám ơn người bạn đã gảy sợi tơ lòng yêu nước
trong tôi. Hôm ấy chúng tôi hứa với nhau sẽ góp phần tranh đấu cho đất
nước để ngày mai mình được hãnh diện đứng dưới bóng cờ của chính quốc
gia mình.
Năm 1946 tôi nghe tin Xướng gia nhập
bộ đội Việt Minh chiến đấu chống Pháp tại Hưng Yên, nơi quê hương của
anh ta. Pháp khen khả năng điều binh của Xướng. Tôi và Xướng lúc đó
mỗi người đã tự chọn lựa con đường tranh đấu cho quê hương theo quan
niệm của mình. Người bạn hôm nào đã trở thành hai kẻ đối nghịch đứng ở
hai chiến tuyến tuy lòng tôi vẫn quý trọng anh” (Việt Nam Nhân Chứng,
trang 27).
Vì quý trọng Trần Văn Xướng mà Trần Văn
Đôn quý trọng luôn Việt Minh và CSVN. Nhưng ông không hề ngờ là cuối
cùng Trần Văn Xướng vẫn bị giết hại bởi CSVN, tức là hai ông vẫn cùng
một chiến tuyến. Chỉ tiếc là khi Trần Văn Xướng được trả trở về vị trí
một người yêu nước không Cọng sản thì cũng là lúc ông phải chết.
Cuộc thảm sát mấy ngàn sĩ quan chỉ huy
Năm 1953, ngày 2-3-1953,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra một sắc lệnh quy định các thành phần giai cấp ở
nông thôn trong vùng Việt Minh chiếm đóng để chuẩn bị thực hiện Cách
mạng Cải cách ruộng đất.
Hoàng Tùng kể lại : “…Bác chuẩn bị
cho hội nghị cán bộ vào đầu năm 1953, quyết định cải cách ruộng đất.
Trung Quốc cử đoàn cố vấn sang, bao gồm cố vấn công an, cố vấn tổ chức,
cố vấn tuyên truyền. Đoàn cố vấn cải cách ruộng đất do Kiều Hiếu Quang
làm trưởng đoàn. Kiều là phó bí thư tỉnh Quảng Tây. Họ muốn qua cải
cách ruộng đất để chỉnh đốn lại Đảng ta. Thời gian lúc tiến hành cải
cách đến lúc dừng là 3 năm. Khi đó tôi thường được dự họp Bộ Chính Trị
do đó cũng biết một số việc…”.
Việc trước tiên của Kiều Hiểu Quang là
thanh lọc lại toàn bộ các sĩ quan chỉ huy trong quân đội và các cán bộ
quan trọng trong Đảng CSVN. Sau đó thay thế bằng những người do các cố
vấn lựa chọn. Tiêu chuẩn để được chọn làm chỉ huy phải là những người
có xuất thân là giai cấp vô sản; tức là công nhân, bần nông và cố
nông; nghĩa là những người thất học, ai bảo sao thì nghe vậy.
Trên danh nghĩa, Kiều Hiểu Quang tuyên
bố là tổ chức laị đội ngũ theo học thuyết Mác-Lê, đưa giai cấp vô sản
lên lãnh đạo “cách mạng”; nhưng trên thực tế là triệt hết những cán bộ
xuất sắc có từ trước đến nay để thay bằng những người “thân Trung Quốc”
mà các cố vấn đã nhắm truớc.
Dĩ nhiên là các cố vấn nhắm tới thành
phần thất học, có hành vi bợ đỡ, tỏ ra tuyệt đối tôn thờ Mao Chủ tịch vĩ
đại. Cuối cùng đưa tới kết quả là những ngời có tài, có nhiệt tâm với
đất nước, bị thay thế bằng những người có điểm với các cố vấn; nhưng
những người có điểm với các cố vấn lại là những người bất tài và không
có tư cách.
Hoàng Tùng kể lại: “Thuyết của họ là
không dựa vào tổ chức cũ, mà tổ chức lại một số tổ chức khác của Đảng,
họ phủ nhận hết các tổ chức khác như chính quyền, các đoàn thể. Ai lãnh
đạo cách mạng tháng 8 thành công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm
1945 đến năm 1953. Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị xử tử”!
Dĩ nhiên là Kiều Hiểu Quang không trực
tiếp nhúng tay vào việc giết người, ông chỉ ép buộc Nguyễn Chí Thanh và
Võ Nguyên Giáp phải thanh toán hết những người có tài bởi vì để họ ở lại
thì có thê họ sẽ âm thầm tổ chức quật ngược lại thế cờ hoặc ngấm ngầm
tuyên truyền chống lại trong Đảng hay trong Quân đội.
Những người bị giết thường bị gán cho cái
tội là có lý lịch liên quan tới Quốc Dân Đảng và xuất thân là thành
phần “trí, phú, địa, hào”. Hầu hết những người bị giết đều được hỏi hai
câu hỏi trước khi bị hành hình : “Anh thuộc giai cấp kẻ thù của
giai cấp vô sản, vậy thì anh vào Đảng của những người vô sản để làm gì?
Rồi lại tìm cách leo cao, luồn sâu trong Đảng để âm mưu gì?”.
Trong quân đội, ngoại trừ Tướng Võ Nguyên
Giáp, các tướng có công khác như Lê Tùng Sơn, Đặng Văn Cáp, Bùi Ngọc
Thành, Vương Thừa Vũ, Cao Hồng Lãnh, Bùi Đức Minh, Trần Quốc Kính,
Nguyễn Hữu An, Đặng Vũ Hiệp, Lê Trọng Nghĩa, Lê Liêm…đều bị vô hiệu hóa
và bị tước hết quyền lực.
Cũng còn may là họ không bị thanh toán
như các sĩ quan cấp dưới. Nhờ ở chỗ họ không chủ tâm xin vào Đảng vì
lập trường giai cấp, tất cả đều cho biết họ tham gia mặt trận Việt Minh
vì yêu nước, sau đó Đảng thấy họ có khả năng mới kết nạp họ chứ họ
không thiết tha xin vào. Do đó nếu đúng theo nguyên tắc tổ chức của
Lenin thì những người kết nạp họ đã phạm sai lầm chứ không phải họ cố
tâm vào Đảng để phá hoại.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam mới có chuyện giết oan hàng loạt những người tài có công với mình,
họ không có tội gì hết nhưng phải giết họ chỉ vì ông chủ mới không muốn
thấy họ trong bộ máy quyền lực của CSVN.
Cũng có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử
thế giới mới có chuyện giết mấy ngàn vị sĩ quan chỉ huy của mình mà
không biết họ có tội gì. Trên thế giới cũng có những vụ thanh toán các
cấp chỉ huy nhưng đều xảy ra khi có bằng chứng họ tạo phản hoặc nghi ngờ
họ có thể tạo phản. Nhưng đằng này độc đáo là ở chỗ biết họ rất trung
thành, rất có công với mình và đang miệt mài chiến đấu vì mình.
Hoàng Tùng có vẻ thản nhiên khi thú nhận
là CSVN đã giết oan hằng mấy ngàn vị chỉ huy trong Đảng cũng như trong
Quân đội CSVN, ông coi như là chuyện giết gà giết chó.
Nhưng cho dầu là
đối với loài thú, loài người cũng không chấp nhận chuyện vô cớ giết oan
những con thú trung thành, đang hết lòng phục vụ cho mình.
Hoàng Tùng cố ý đổ hết trách nhiệm vụ
thảm sát này cho Trung Quốc, và có vẻ như ông là người đầu tiên công bố
bí mật đau xót này. Tuy nhiên trước đó 5 năm, vào thời Nguyễn Văn Linh
cho phép nói thẳng nói thật, thì Đại tá Thanh Tịnh và Đại tá Phạm Quế
Dương đã nói xa nói gần, đòi đưa vụ án ra trước công lý. Cả hai vị đại
tá đều nêu đích danh người phải chịu trách nhiệm là Nguyễn Chí Thanh và
Võ Nguyên Giáp.
Vụ án này là một chứng minh cho thấy cả
một thế hệ nhân tài cuối cùng của cuộc “Cách mạng Mùa Thu” đã bị tiêu
diệt. Còn lại rặt một đám vô sản lưu manh chạy theo bợ đỡ cán bộ Trung
Quốc để được tiến thân trong ĐCSVN. Lúc Nguyễn Chí Thanh và Võ Nguyên
Giáp quyết định giết mấy ngàn sĩ quan chỉ huy trong quân đội thì các ông
thừa biết rằng họ bị oan, bởi vì chính các ông cũng có xuất thân y hệt như họ.
BÙI ANH TRINH
No comments:
Post a Comment