1. TỔNG QUÁT
Sự diễn tiến lịch sử của một dân tộc bao giờ cũng ăn nhịp với bước tiến hóa của nhân loại cho nên trước khi bàn đến lịch sử của nòi Việt, chúng ta cần phải đặt định rõ sự tiến triển của loài người ra sao?
Ta có thể chia lịch sử loài người ra làm 3 kiếp: Duy Nhiên kiếp, Duy Dân kiếp, và Duy Nhân kiếp.
1.1. Thời kỳ Duy Nhiên
Lúc này loài người chưa biết kết hợp thành bộ lạc với xã hội chưa có bản năng tiến hóa và tổ chức, nay đây mai đó, chỗ nào thích hợp thì ở, thời kỳ này theo Marx là thời mẫu hệ (sống theo mẹ, loài thú) và tự nhiên kinh tế, nhưng thật ra làm gì đã có kinh tế mà gọi là kinh tế tự nhiên, đó chỉ là sự hưởng thụ những gì của tự nhiên sẵn có, như con dê ăn lộc, con rắn ăn nhái, v.v... Đã sống theo tự nhiên như vậy thì loài người lúc ấy làm gì có kinh tế được vì kinh tế là do tổ chức mà ra, nên danh từ kinh tế tự nhiên theo Marx là không đúng.
1.2. Thời kỳ Duy Dân
Thời kỳ này là khi nhân loại đã biết quần tụ lại một nơi, hoặc trước cuộc Đại Hồng Thủy hay sau cuộc Đại Hồng Thủy cũng vậy. Theo thuyết “nhân loại nhất nguyên luận” thì nơi tụ tập ấy là núi Tu Di (Palmir), thời kỳ này có ra ước độ 5.000 năm trước Ky Tô kỷ nguyên “Thiên Chúa giáng sinh”. Theo thuyết này, loài người lúc ban đầu ở núi Tu Di tràn xuống, hoặc theo các lạch nước mà sống theo nghề đánh cá, rồi cày cấy, hoặc the o các đồng cỏ mà sống theo nghề du mục (chăn nuôi súc vật). Ta có thể vạch ra đồ biểu như sau:
Palmir (Tu Di) Aryen
1. Tiệp Khắc (Ấn)
2. Trung Á Tế Á Hy Lạp
3. Ai Cập
4. Altai
5. Hán An Sơn Khuông.
Theo biểu đồ trên đây ta thấy rõ nhân loại từ lúc ở Tu Di tràn xuống mỗi lần có sự tổ chức từ bộ lạc lên thành quốc gia, mà mỗi thứ về tinh thần cũng như vật chất, mỗi lần xuất hiện là có sự xếp lại thành hệ thống qui củ. Đặc tính của thời kỳ này là sự tổ chức.
1.3. Thời kỳ Duy Nhân
Thời kỳ này đã phôi thai ra ở những lý thuyết Đại Đồng, hoặc như trong thuyết của Khổng Tử, của Marx hay như trong các tôn giáo như Thiên Chúa (Độc Thần Giáo) và Phật Giáo (Nhất thiết chúng sinh giai đại thể Phật) nhưng đó mới chỉ là lý thuyết thôi, nó cần phát hiện ra sự thực chắc chắn. Lúc ấy nhân loại mới được sự thúc đẩy sống về nhân loại trước nữa. Tóm lại, thời kỳ Duy Nhiên đã qua, thời kỳ Duy Dân đương cần phải đầy đủ, bước sang thời kỳ Duy Nhân là thời kỳ đầy sung sướng, một đời cực lạc đưa về sau này (Di Lặc?).
Trên giải đất Á Đông mà ngày nay gọi là
1. Thế nào gọi là Việt? Việt không phải là tên chúng ta đặt ra sau này, lúc trước Việt còn gọi là Viêm.
a. Viêm Đế.
b. Hải Đại vì ở tỉnh Hải Đại (Sơn Đông).
c. Miêu: thời kỳ đấu tranh với giống Hán.
d. Thái: lấy gốc sự chiếm lĩnh Thái Sơn lúc đầu.
2. Thế nào gọi là Hán? Vì sự phát tích ở sông Hán Thủy và còn gọi là:
a. Hoa: núi
b. Hạ: vì quần tụ ở tỉnh Hạ (
3. Thế nào gọi là Di? Tức là dân ở phía Bắc Đông
Về 3 dân tộc kể trên đây, thì dân Việt là dân đã chiếm được trước tiên núi Thái Sơ n để làm hoa địa và đã phát sinh ra nền văn minh của Tàu hiện nay. Những cái gốc Hà Đồ, Lạc Thư, Nam Châm, chữ Việt, v.v... là những vật của người xưa, của giống nòi Việt, sẽ nói rõ ở đoạn sau.
Rồi từ núi Thái Sơn bị giống Hán từ Thiên Sơn tràn xuống chiếm mất, dân tộc ta cứ lùi dần dần về phía Nam và trải mấy cuộc thiên dời như thế, về sau dân tộc Việt mới tìm được đất Phong Châu để dùng làm hoa địa mới mà lập nền tảng xưa, nhưng sau gần 2000 năm, giống Hán lại lan tràn, giống Hán lại lần lần tràn xuống để uy hiếp, cơ đồ Văn Lang và Âu Lạc của ta lại bị lật đổ. Tuy vậy, từ lúc ấy đến nay, chúng ta cũng không vì sự uy hiếp mà mất hẳn cái bản sắc xưa của dân tộc. Hơn nữa gần 100 năm nay đồng thời còn bị một sức uy hiếp mạnh hơn là sự xâm lăng của giống Âu Châu mà dân tộc ta cũng vẫn giữ được căn bản cố hữu.
Trong lịch sử dân tộc Việt ta, cứ mỗi một thời dân tộc bị uy hiếp rất mãnh liệt có thể đưa giống nòi đến diệt vong, thì tự nhiên lại bật lên một lực lượng rất mạnh mẽ để đối phó lại mà bảo vệ lấy giống nòi, hoặc xây dựng một nền tảng mới, hoặc sửa soạn một thời quá độ cho một giai đoạn vinh quang tiếp đó. Mỗi thời ấy đều có người anh hùng đứng ra tiêu biểu, để lại những tiêu biểu và giáo huấn cho cuộc cách mạng sau, từ sau Hồng Bàng cho tới nay, hơn 2000 năm, ta có thể ghi giáo huấn 9 điều:
1. Lúc nhà Tần đã thống nhất
2. Khi nhà Hán đã diệt được nước Nam Việt của Triệu Đà liền sát nhập nước ta vào bản đồ của họ, rồi cắt quan sang cai trị, tuy vậy lối chiếm lĩnh của người Hán thời ấy chỉ là lối thực quan (cho quan cai trị) chứ không phải thứ thực dân gần đây. Vì thế dân tộc vẫn được tổ chức đời sống riêng, v.v... nhưng về sau sự áp bức của bọn quan lại Hán càng ngày càng tàn ngược mà dân tộc ta mỗi ngày một tiến, không thể chịu như vậy để rồi diệt vong, nên
3. Sau cuộc thất bại của hai Bà Trưng, dân tộc ta lúc ấy chia ra làm hai xu hướng: một phe thì yên giữ đất cũ, lấy năng lực dân tộc ngấm ngầm vừa chịu đựng dưới sự đè ép của giống Hán vừa chờ đợi thời cơ mà quật khởi.
Một phe khác đại biểu là
4. Đời Ngũ Quỷ của nước Tàu bấy giờ bên trong loạn lạc chia rẽ, dân tộc ta đã biết lợi dụng cơ hội thuận tiện ấy đem lực lượng đã đầy đủ tranh đấu nên từ các
5. Hết đời Đinh rồi đến đời Lê rồi đến đời Lý, nền độc lập Việt đã đạt được thành quả.Nhưng về phía người Hán lúc ấy nhà Tống làm vua, thế nước rất mạnh, mưu cơ xâm lược của họ đối với ta không lúc nào thôi. Nếu lúc ấy cái phong trào Tân Phát (?) của
6. Nhưng qua thế kỷ thứ 13, giống Mông Cổ rất mạnh đã xâm chiếm nước Tàu và chinh phục gần hết thế giới tới sát cực bàn của Âu Châu (Tiệp Khắc). Sức
7. Đến cuối đời Trần, Hồ Quý Ly tham lam gây nội loạn trong nước. Bên Tàu lúc ấy, nhà Minh đã đuổi được Mông Cổ, thế lực đương mạnh, lợi dụng tình thế rối ren của nước ta, đã tràn sang xâm chiếm nước ta. Trong 20 năm trời, họ vừa giết chóc, vừa hóa ta theo họ, vừa tiêu hủy văn hóa của ta. Họa diệt vong của dân tộc đã tới thì lịch sử ta lại đưa đến một vị anh hùng là
8. Nhà Lê làm vua được 300 năm đến khi gần mạt thì trong nước lại xảy ra việc
9. Nhà Tây Sơn thống nhất nước ta được hơn 10 năm, lúc ấy thế lực Âu Châu đã tràn cả Á Châu và tới đất Việt, nhưng vì Gia Long với cơ đồ yếu đuối của nhà Nguyễn câm thống, cái sức mỏng manh trước cái mãnh liệt cường lực của Tây Sơn, đã phải thỏa hiệp với Pháp. Sự thỏa hiệp đó, tuy Gia Long có thống nhất cả
Cái quá khứ ấy có thể chia ra 4 thời kỳ:
1. Môn Hóa (Thần Tắc Kỳ)
2. Văn Hóa (Đế Tắc Kỳ)
3. Hồng Hóa (Danh Tắc Kỳ)
4. Dân Hóa (Dân Tắc Kỳ).
Bốn thời kỳ này sẽ phân định và nói ra như dưới đây. Lịch sử Việt đã có hơn một vạn năm chia ra 4 thời kỳ sau đây:
1. Môn Hóa (Thần Tắc Kỳ)
2. Văn Hóa (Văn Lang Đế Tắc Kỳ)
3. Hồng Hóa (Danh Tắc Kỳ)
4. Dân Hóa (Dân Tắc Kỳ).
1. Thời kỳ thứ nhất: Thời tiền Việt lấy núi Thái Sơn làm hoa địa và tranh đấu với nòi Hán, rồi sau những cuộc tranh đấu ấy phải lùi về phía
2. Thời kỳ thứ hai: Thời Kỳ Hồng Bàng lấy Phong Châu làm hoa địa để gây lại nền tảng xưa.
3. Thời kỳ thứ ba: Bắt đầu từ khi Thục Phán lập ra Âu Lạc, rồi Tần (Hán) xuống xâm lăng, từ ấy sự gắng gỏi của dân tộc dồn vào Thăng Long lấy làm trung tâm sinh hoạt, mưu một cuộc tái sinh cho nòi giống.
4. Thời kỳ thứ tư: Bắt đầu từ thời kỳ Gia Long tiếp xúc với Âu Châu cho đến năm 1939 và từ 1939 đến 2000.
2. GIẢI THÍCH TỪNG THỜI KỲ
2.1. Môn Hóa Kỳ (Thần Tắc Kỳ)
Tại sao gọi là Môn Hóa? Vì cái đặc sắc của thời kỳ này là dân tộc ta đã chế ra đươc văn tự là thứ chữ Môn Thư, chữ Hoa hình như con nòng nọc, ta gọi là lối chữ khắc dấu mà người Hán đã dùng để chế ra chữ Hán của họ. Thứ chữ Môn này, ở Mường còn có nơi dùng, nhưng ở dân Thái thì đã bị pha trộn với chữ Phạn của Ấn Độ mà biến ra một thứ chữ riêng. Ở ta dấu tích thứ chữ ấy còn sót lại ở trong quan tài bà
Theo sử Tàu thì vua đầu tiên của họ gọi là Hoàng Đế, theo sử ta thì vua đầu tiên của ta gọi là Viêm Đế. Hai ông vua ấy là tiêu biểu 2 hành trong Ngũ Hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Số học của Tàu bắt đầu từ số 1 biểu hiệu của Thái Cực, lúc đó là đời Bàn Cổ (hỗn độn), sau mới sinh ra Tam Tài là Thiên - Địa - Nhân, Trời Đất chia ra 5 phương thuộc 5 hành là Đông (Mộc), Tây (Kim), Nam (Hỏa), Bắc (Thủy), Trung (Thổ).
5 phương ấy là do 5 giống người làm đại biểu cho 5 hành và 5 sắc, nên những người đại biểu đã dùng 5 sắc mà đặt tên:
* - Bắc Phương (Thủy) sắc đen gọi là Hắc Đế.
* - Tây Phương (Kim) sắc trắng gọi là Bạch Đế.
* - Đông Phương (Mộc) sắc xanh gọi là Thanh Đế.
* - Nam Phương (Hỏa) sắc đỏ gọi là Viêm Đế.
* -
Theo thứ tự như trên thì loài người có văn minh trước nhất là giống Bắc Phương (Hắc Đế) tức là nòi Địch, giống người tối cổ ở Sibérie, thứ đến là người Khương ở Tu Di (Palmir) thuộc Tây Phương rồi đến giống người ở Đông Phương (Di) kế đến giống Viêm tức giống Việt ta ở Nam Phương và giống Hán là tập đại thành của mọi cái của các giống trên.
Tóm lại tất cả trên đây ta có thể thu thành đồ biểu:
* - Thái Cực
* - Tam Tài (Thiên Địa Nhân)
* - Thủy [ Hắc Đế ]
* - Kim [ Bạch Đế ]
* - Mộc [ Thanh Đế ]
* - Hỏa [ Viêm Đế ]
* - Thổ [ Hoàng Đế ]
Văn minh theo sử Tàu, khi có lễ thắt nút tự bao ly (tức Phục Hy) nhận thấy con Long Mã (Rồng) dưới sông Hoàng Hà nổi lên có 55 điềm, bèn ghi lấy rồi chế ra Bát Quái đến đời Hoàng Đế mới sai
Trong thời gian chiếm lĩnh núi Thái Sơn làm hoa địa, ngoài cái đặc điểm chế ra văn tự (chữ Môn) dân tộc ta đã tới thời nông nghiệp (theo triết học gọi là thần tắc) còn xã hội tổ chức thì cùng theo lối bộ lạc gọi là Lạc Chế. Dân từng nơi bầu ra Lạc Hầu và Lạc Tướng. Ruộng cấy chia đều gọi là Lạc Điền, dân cấy rồi thì nạp thuế (theo lối bộ lạc bình sản kinh tế), nước thì gọi là Làng nên sau này mới có những danh từ như chữ Văn Lang đời Hùng Vương và Đào Làng đời Lý Phật Tử (chữ Làng ấy sau này theo chữ Hán mới viết đọc là Lang rồi sai lần đi).
Trong thời Môn Hóa này tức là thời kỳ thần tắc, dân tộc Việt đã dùng 2 vật sau này làm hèm (totem):
1. Rồng: Nghĩa là tỏ ý to lớn nhất lại hay biến hóa và đầy năng lực phấn đấu.
2. Tiên: Tỏ ý cao siêu sáng suốt, trường thọ.
Hai thứ trên là biểu dương của nguyên tố về vật chất và tinh thần.
Nhưng chiếm núi Thái Sơn được một thời gian thì lại phải tranh đấu với các giống Di, Khương, Địch và Hán, nhất là với giống Hán từ Thiên Sơn (Altai) tràn xuống khá mạnh nên hoa địa Thái Sơn phải mất và dân tộc Việt phải lùi xuống phía Nam, lấy song
Đó là lần Nam Thiên Di thứ nhất, cuộc đấu tranh này đã chuyển từ văn hóa đến vũ lực nên các vũ khí đã tiến lên đến nghề rèn sắt. Vì có rèn sắt nên mới có nam châm, cái gốc chính của địa bàn (boussole - Lressole).
Cuộc Nam thiên lần thứ nhất này là thời kỳ Viêm Đế, sau cuộc ấy hoa địa đã mất quyền khống chế vũ trụ cũng mất, mà nơi căn cứ mới là miền
a. Mất Thái Sơn là mất cả sinh hoạt về vật chất và tinh thần vì đấy là một trọng địa, nơi nào chiếm được sẽ làm lễ phong thiên chiêu hồn tá (hồn tế?) (tá = phụ tá, tế = chủ) tất cả các tử sĩ và đắp nằm ở trên các ngọn núi đền thờ phụng tổ tiên, lại là một căn cứ quan trọng cho việc quốc phòng, có đủ điều kiện về kinh tế văn hóa để tiến, lui, đánh, giữ.
b. Vì sự thất bại ấy nên mất Hà Đồ - Lạc Thư tức là mất vận động về tinh thần và mất cả bản lĩnh sống, cùng sáng tạo và đấu tranh.
c. Sau khi
1. Đại Việt Viêm Đế:
a. Trọng điểm: Ngũ Hồ, Ngũ Lĩnh.
b. Kinh tế: Lạc Chế Bình Dân Bộ Lạc.
c. Văn hóa: chữ Môn, Hà Đồ - Lạc Thư.
d. Hèm: Rồng Tiên.
2.2. Văn Hóa Kỳ (Đế Tắc Kỳ)
Tranh đấu
a. Mất Thái Sơn (hoa địa: đất làm nổi, phát huy tinh hoa).
b. Hoạt động: từ quốc gia bình diện đến quốc tế lập thể hoạt động sang quốc gia lập thể.
c. Bộ lạc: Băng hoại phân tán.
d. Văn hóa: Đế Tắc Kỳ.
Thời kỳ này bắt đầu Nam thiên từ lưu vực sông
Sau cuộc băng hoại của dân tộc Việt về cuối thời Môn Hóa, cái công việc quan hệ nhất của văn hóa là phải liên lạc những phần tử bị tan rồi để gây lại thành một khối, câu chuyện điển hình là một bọc trăm trứng tức là sự biểu tượng cho sự liên lạc ấy. Lưu vực của giống Việt chiếm cứ lúc bấy giờ là suốt từ 5 hồ, 5 núi cho đến hết phía Nam, bao quát cả Miến Điện xuống đến Mã Lai ăn ra các đảo ngoài Đông Hải và Java Phillipine.
Vậy mà về phía người Hán thì phạm vi hoạt động quốc tế của họ, phía Nam chưa ra khỏi núi Hằng Sơn, phía Đông không quá Đông Hải, phía Bắc chưa quá An Sơn (hồ Baikal) và Tây không quá Lưu Xá.
Còn về thời Hồng Bàng thì phạm vi hoạt động quốc tế của ta sau khi lấy Phong Châu làm hoa địa, dân tộc ta đã lấy Ngũ Hồ làm trọng trấn phía Bắc, Miến Điện làm trọng trấn phía Tây. Hiện nay ở lưu vực sông Hằng (Gange) ở Ấn Độ còn hơn 10 triệu người Thái thuộc giống ta và ở Miến Điện có giống Thái nói nửa tiếng Mường và nửa tiếng Thái.
Tục Hèm về thời văn hóa (tức Hồng Bàng) này là vẽ hình mình, ăn trầu, nhuộm răng, thờ cúng tổ tiên, và các thứ thần, cắt tóc ngắn, quần áo lúc ấy thì lấy mảnh vải khoét lỗ mà chui đầu qua, không tay (như lối áo nâu nhiều miền quê còn mặc khi rước thần) và lối áo giáp ra trận như áo giáp mây khi Mạnh Hoạch chống nhau với Gia Cát Lượng.
Về tín ngưỡng thời này, ngoài việc thờ cúng tổ tiên và các thần còn có việc Chử Đồng Tử tu theo đạo tiên, mà hiện nay di tích còn ở Đầm Dạ Trạch (Hưng Yên) và ở núi Nam Giới thuộc Cửa Sót (Hà Tĩnh) Cam Lộc. Còn việc thần Tản Viên chế ra gậy thần và sách ước, tức là cái triết sáng tạo của ta: gậy thần là vô vi biến hóa, 2 đầu là biểu hiệu sự sống chết và ở giữa tay nắm để vận dụng dẫn dắt loài người. Sống là bắt nguồn ở cái chết, chết là bắt nguồn của cái sống, vậy cần phải nắm giữ thế nào để vận động sư sống chết để quân bình, tức là sự tiến hóa thích trung, còn sách ước thì nguyên chỉ là tập giấy trắng, trông vào trắng tất phải nghĩ ngợi, tâm lý chung ai ai cũng ước vọng điều hay, điều tốt, do đó mà sáng tạo ra những cái hay, cái tốt và tiến bộ.
Chế độ sinh hoạt về thời này lúc đầu cũng như về thời Môn Hóa tức là theo lối Lạc Chế cùng Lạc Hầu và Lạc Tướng trông coi dân cày cấy (Lạc Điền) nhưng rồi dần dần cũng đi tới trạng thái quốc gia.
Theo một ngạn ngữ ở Nghệ An nói “Ông tát bể, ông kể sao, ông đào sông, ông trồng cây, ông xây rú, ông trụ trời” ta có thể thấy đó là dân tộc vô danh của thời ấy, đã xây dựng nên quốc gia và mưu cuộc lớn cho dân tộc.
Ông tát bể (đại biểu cho dân nông nghiệp) lúc ấy hóa những đồng lầy ở gần biển thành những ruộng cây lúa và trồng trọt, lấp bể mà trồng trọt.
Ông kể sao, đại biểu cho thiên văn khí số, để hiểu biết khu vực phương hướng tìm ra lịch số chỉ về những thời tiết thay đổi.
Ông đào sông, đại biểu sự khai phá giao thông để mở mang ngòi lạch dẫn thủy nhập điền, tránh nạn lụt, thông thương tiện lợi.
Ông trồng cây, bao quát cả về nông nghiệp, trồng trọt, mục súc, săn bắn, di dân.
Ông xây rú, khai phá rừng núi để làm dinh trại (quốc phòng) và trồng trọt, đan cây,xẻ gỗ, v..v..
Ông trụ trời, làm ra nhà để chống mưa nắng.
Sở dĩ làm như vậy được là vì thời ấy nơi trung tâm Văn Lang đã biết dùng sắt rồi. Dân Việt trong những cuộc đấu tranh kịch liệt chiếm giữ Thái Sơn đã vượt qua tuổi thạch khí, đồ đồng đến sắt, nên thời Hùng Vương thứ VII giặc Ân (nhà Ân giống Hán) tràn xuống xâm lấn, Phù Đổng Thiên Vương đã dùng ngựa sắt để chế ngự lại. Trong truyện Thánh Gióng còn dùng cả gậy tre đánh giặc, tướng Ân lúc ấy là
Trong cuộc xâm lăng này thì người Ân lại học ta được nghề châm cứu của bà Ma Thị, dùng ngải cứu đốt vào chỗ đau mà trừ bệnh, mà chính bà đã truyền cho quân lính Ân.
Về hôn thú thì việc Mễ Nàng (Ba nàng Mỵ Nương) con vua Hùng Vương là Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử là một thứ hôn thú thời ấy có gả và cưới hẳn hoi.
Tóm lại, thời kỳ này là thời kỳ gắng sức của dân Việt để gom góp lại sự tan rã của Đại Việt cũ, xây dựng lại nền móng thống nhất phương
Đặc điểm của thời kỳ này là liên lạc, sáng tạo và đối phó:
A. Liên lạc hết thảy các phần tử Bách Việt xưa để thành lập một quốc gia phương
B. Sáng tạo một văn hóa mới như gậy thần sách ước, ông tát bể, ông kể sao, v.v... dựa vào nền gốc cũ xưa, xây đắp một thứ mới để vận dụng cho sự liên lạc trên.
C. Đối phó một giống Hán luôn luôn xâm lấn nên việc quốc phòng là cần thiết, sắt đã phát minh từ khi còn chống giữ Thái Sơn, nên khi xuống Phong Châu đã biết dùng sắt ngay để làm khí giới quốc phòng. Về chuyện Phù Đổng Thiên Vương, nói là đứa trẻ lên ba tuổi vươn vai là biểu tượng lực lượng dũng mạnh kỳ dị của dân tộc, là tỏ ý toàn dân tham gia kháng chiến, nói gậy tre giáo mác là biểu hiện kháng chiến toàn thể dân tộc, áo mặc bằng bông lau (lá lau) biểu hiện sự bình dân. Rồi việc Phù Đổng đánh giặc xong lên núi Sóc Sơn mà hóa là biểu hiện sự cao khiết hy sinh vì nghĩa vụ trọn vẹn rồi thì danh lợi cũng không màng.
Trong lúc thực hiện ba điều kiện trên đây thì dân tộc Việt ở rải rác các bộ phận phía Bắc trên sông
Ngoài những việc trên này về thời Văn Hóa (Văn Lang), chúng ta còn ghi được những việc như sau:
1. Đối Nội: Chính thể Hồng Bàng là từ chính thể Tiểu Việt (bộ lạc rời rạc lên đến Đại Việt (liên lạc Bách Việt) chính tự có Hoàng Đế Lạc Long Quân sau là Hùng Vương hay Lạc Vương (chữ Long của Tàu là do chữ thuồng luồng của ta), nước là Làng (Văn Làng), dưới vua là Lạc Hầu tiên chỉ và Lạc Tướng, Lý Trưởng.
Sinh hoạt: Lạc Điền, ruộng của làng được chia đều (quân điền chế), nòi giống Việt lúc ấy chia làm 3 hệ:
A. Lạc Việt ở Quý Châu, Tứ Xuyên (Ba Thục), Xiêm La, Miến Điện, Mã Lai, Java, Phi Luật Tân.
2. Đối Ngoại: vừa tiêu cực vừa tích cực, đề kháng tiêu cực bằng xây dựng lại hay báo thù và tích cực bằng chiến đấu. Trong thời gian này, người Hán còn mượn của ta mấy thứ:
1. Đàn Bầu (âm nhạc)
2. Cung tên (võ khí)
3. Châm cứu (y dược)
4. Rùa (Quy Lịch, thiên văn)
5. Tiên đạo: Tôn giáo học thuyết là Lão Giáo biến thái.
6. Nghề đúc sắt, Hoàng Đế đánh Xi Vưu Việt tìm kiếm chế được nam châm.
Tóm lược Văn Hóa Kỳ:
1. Đời Hồng Bàng:
a. Tái kiến văn hóa cũ
b. Liên lạc dân tộc bị băng hoại
c. Lập lại văn hóa mới, Gậy Thần Sách Ước đi ngay vào sự dùng sách để gây dựng quốc gia.
d. Chế độ quốc gia bình sản kinh tế, Lạc Chế theo chế độ quân chủ phân quyền.
e. Hèm vẽ mình, ăn trầu, nhuộm răng, cắt tóc ngắn.
2. Đối ngoại tắc:
a. Đấu tranh bằng văn hóa và giao hảo bằng văn hóa với giống Hán.
b. Đấu tranh bằng vũ lực nếu bị xâm lăng, hay thừa cơ loạn ly của giống Hán (ví dụ chống Ân hay Việt bá trung nguyên, Sở hùng chiến quốc).
2.3. Hồng Hóa Kỳ (Danh Tắc Kỳ)
Thời kỳ này bắt đầu từ Thục Phán là cháu ngoại vua Hùng Vương từ Ba Thục xuống chiếm Văn Lang làm Âu Lạc. Trong sử nói, ông ta chiếm đất vua Hùng là theo lời dặn của ông tổ ba đời thì việc không lấy được Mễ Nàng, nhưng có lẽ không đúng. Tuy rằng đời Hùng có tục đồng tính kết hôn (theo thuyết của J J Rousseau) việc từ hôn trên nếu có cũng chỉ là việc trong nhà, không có gì thái quá như vậy và tuy xác nhận Thục Phán là người nhà vua Hùng, là đương nhiên lên thế ngôi vua Hùng, không phải là tranh cướp. Điều mà chúng ta cần chú ý là sau khi Thục Phán lên ngôi, xưng là An
Xem đây, ta thấy Thục Phán không phải là việc riêng định thôn tính (hay đổi tên cũng thế) nước Văn Lang để lập ra nước Âu Lạc mà thật ra là vì việc chống giữ cho no I Bách Việt, theo mưu kế của
Thời kỳ Hồng Hóa này việc chống đánh của Lục Lương là một việc quan trọng. Đáng ghi nhất là việc mở đầu cho thời kỳ này, theo ý nghĩa của tập thông luận này vậy. Hành động của Thục Phán vừa là đối ngoại cách mạng vừa là quốc gia cách mạng. Nhưng rồi Thục Phán đã thất bại có lẽ là vì đi quá trớn và vì giết
Quân cách mạng, lực lượng có thể gọi là chính thức bắt đầu từ khi Tần Thủy Hoàng thôn tính cả 6 nước rồi cho Đồ Thư sang đánh Ngũ Lĩnh. Từ lúc An
Thời hỗn hợp này chia ra làm hai thời kỳ:
Nam Việt thời - Tiểu Việt thời:
A. Nam Việt Thời: Triệu Đà là quan nhà Tần theo Nhâm Ngao sang thôn tính Bách Việt, sau khi Đồ Thư, Liễu Lộc chết trận, Phiên Ngung (bây giờ là Quảng Châu) lại ly Sở cho Đà làm chức lệnh ở Long Xuyên. Ít lâu sau, Ngao chết, Đà lên thay rồi sau khi Tần mất nước, Đà chiếm được Âu Lạc mới xưng là vua, đặt tên là Nam Việt (2072) trước Thiên Chúa (?).
Vì sao Triệu Đà lại lấy tên nước là như vậy? Mà chữ Việt ấy có đúng không? Theo sách Chúc Phương của nhà Chu nói về dân bộ thì từ
Lúc còn nhà Tần thì Đà là một đại biểu cho chủ nghĩa xâm lược của Tần, chỉ biết theo chính sách của Tần mà làm tròn bổn phận. Đến khi Tần bị diệt thì Đà vừa là tình thế, vừa nhân cơ hội loạn ly mới tự xưng làm vua chiếm cứ một phương, nhưng dù cố ý hay vô tình, công việc làm của Triệu Đà cũng chỉ dồn vào mục đích chung của giống Hán là tiêu diệt các dân tộc xung quanh Hán. Lúc đầu, Đà theo kế hoạch của Tần là đem quân sang đánh và đem dân sang hóa ta theo họ, nhưng việc đánh đã gặp nhiều sự khó khăn gian nan do sức chống đánh và mưu mẹo du kích của dân Lục Lương, còn việc đồng hóa cũng không đem đến kết quả là bao nhiêu. Ta cứ xem hiện nay còn một số người Mán nói tiếng Quan Hỏa ở các miền rừng xứ Bắc Việt thì đó là di tích sự đồng hóa ấy. Đến khi lập thành Nam Việt thì Triệu Đà tuy xưng Đế xưng Vương nhưng cũng phải thỏa hiệp với dân Việt và cũng vào hàng ngũ chống xâm lăng của Hán sau này. Tuy mục đích của Triệu Đà chỉ là mưu một nền thống trị cho mình và cho con cháu mình, nhưng không thể đi trái ngược ý định và nguyện vọng ở xung quanh của mình đang cai trị, nên chính sách Triệu Đà lúc ấy chỉ là kiểm soát, không đồng hóa nổi nên dân Việt vẫn đư ợc tự mưu sự sinh hoạt theo lề thói của mình.
Sách lược của Triệu Đà lúc bấy giờ ta thấy chú trọng về quốc nội trong đó có 7 nhân tố như sau:
1. Liên lạc các giống Việt ở các nơi như Ngô, Sở, Mân để thành lập đồng minh.
2. Lợi dụng các giai cấp quý tộc ở Mân, Ngô, v.v... để kéo cánh về mình.
3. Kinh tế: Từ
4. Chú trọng đến Trường Sa (Hồ
5. Đối nội: Lợi dụng lúc bộ lạc cũ để cho tự trị mưu việc ổn định bên trong.
6. Ngoại giao: Lợi dụng tình thế còn non nớt của Hán vừa cứng vừa mềm để giữ vững địa vị của mình ở phương
7. Thừa hưởng được tình thế lúc ấy, các nước theo văn hóa Hồng Bàng như Đại Chiếm Nam Dương cũng bị suy yếu nên chỉ lo việc chống Bắc.
Bởi nhờ 7 nhân tố trên nên chiến lược của Triệu Đà từ lúc còn Hán
1. Kiến quốc không triệt để vì Đà là giống Hán, dân là giống Việt nên giữa kẻ cầm quyền và dân không ai thực lòng với ai.
2. Quốc phòng không triệt để, không chiếm được trọng địa Trường Sa là mũi dùi của sự xâm lược Hán xuống phương
3. Vì đồng minh là Ngô, Sở, Mân sau khi Triệu Đà chết không liên lạc với Nam Việt mà lại còn thù oán đánh nhau nữa.
Bởi 3 nhược điểm trên nên sau khi Triệu Đà chết chỉ được vài ba đời Nam Việt lại bị Hán thôn tính một cách nhẹ nhàng và khôn khéo, như ta đã thấy việc tướng Việt là Lữ Gia giết Cù Thị là mẹ Ai Vương và Thiếu Quý là sứ giả nhà Hán. Việc làm của Lữ Gia chỉ là một phản ảnh của một sức lực rời rạc của dân tộc Việt, nên kết quả chẳng ăn thua gì, và mưu xâm lược của Hán đã đạt được một cách nhẹ nhàng sau khi xóa nhòa được tên Nam Việt chỉ là cái danh hiệu biến hình.
B. Tiểu Việt Thời
Trước Nam Việt của Triệu Đà, Tàu gọi nước ta là Tượng Quân, khi Hán xóa nhòa được Tượng Quân Nam Việt thì đổi nước ta là Giao Chỉ Quận, cắt quan sang cai trị. Lúc đầu thủ phủ của Giao Chỉ là Quy Lân (Thuận Thành Bắc Ninh) sau dời về Thương Ngô (Quảng Tây) đến cuối cùng lại dời về Phiên Ngung (kinh đô cũ của Việt). Xem sự lùi thủ phủ ấy ta thấy một nguyên nhân gì ở trong chính sách Hán hay Tần chỉ là quan sang kiểm soát, đó là lối đế quốc thực quan chứ không phải thực dân, bờ cõi của quận Giao Chỉ là gồm tất cả Quảng Đông, Quảng Tây và Nam Việt, sau vụ thất bại của Lữ Gia không phải cứ im lặng mà chịu sự đè nén của nòi Hán, mặc dù chính sách của Hán coi Giao Chỉ là nơi cống hiến các sản vật như quế, ngọc trai, chim Trĩ, v.v... còn các bộ la c được tự trị theo lối lạc chế xưa. Bởi vậy về sau này dưới sự đè nén của thái thú Tàu là Tô Định,
Từ cuộc thất bại của Hai Bà cho đến lúc vua Đinh dựng nền độc lập, non 1000 năm dân tộc ta không mấy lúc không có những vận động giải phóng. Bà Triệu đời Tam Quốc, Lý
Tựu trung có một việc ta đáng chú ý nhất là trong thời kỳ này,
Thời đại này là bắt đầu từ vua
Nhưng công cuộc cách mạng Vạn Thắng còn đủ cho ta thấy những đặc điểm về đời tái sinh cải tạo ấy.
a. Về văn hóa: Đạo Phật chiếm độc tôn, trên chữ Nho dùng chữ Nôm.
b. Về quân sự: Sau việc tiêu diệt sứ quân, quân lính hầu hết là dân quân đều tập trung vào quyền chỉ huy của tối cao nguyên soái, thập đại tướng quân
c. Về chế độ xã hội: Nước hoàn toàn độc lập, tuy nhà vua có lập lối Phong Điền, nhưng theo lối Lạc Chế quân điền vẫn thực hiện.
Tóm lại: Kiến thiết rất chuẩn bị, nhất là kinh đô lại đóng ở
Sau đời Đinh nhà tiền Lê (
Từ khi chế độ phong kiến bị đổ, chế độ quân điền lại áp dụng cho toàn dân, văn hóa tuy sùng Phật nhưng lại chú trọng về Nho có sức ứng dụng vào việc kiến thiết nhiều hơn, quân đội chú trọng về dân binh, lấy nông dân làm binh chia ra từng khu huấn luyện để dân có thể làm lính, chính trị lấy triều đình hợp với quốc dân, vua thường đến từng làng ăn họp và hỏi ý kiến dân. Về đối ngoại, nhà Lý thừa dịp nhà Tống có cuộc chi a rẽ tân cựu đảng, sai Lý Thường Kiệt mang quân sang uy hiếp hai châu Khâm Liêm để làm tan sách lược của Tàu định lăm le mưu xâm chiếm. Công cuộc này đã gây một thời kỳ quá độ cho nhà Trần về sau chống Mông Cổ.
Hết Lý, Trần lên. Cuối Lý sự xa hoa của triều đình không vừa lòng dân và vì vua đã tỏ ra chuyên chế độc đoán. Nhà Trần lên thấy ý dân đã cao, có quan niệm mạnh mẽ về quốc gia mới nhân đấy lấy vua làm quốc gia, chế độ phong kiến trang điền bỏ hẳn, chính nhà vua ở Tức Mạc cũng không có gì, mở rộng trường dạy văn và võ, cấm ngặt uống rượu và đánh bạc, Nho và Phật đồng thời thịnh hành và khuyến khích, vua già thoái vị làm cố vấn (Thái Thượng Hoàng) và đi tu (tránh nạn vua ít tuổi và non nớt). Quốc sử bắt đầu chép lấy gốc từ Triệu Đà dựng ra Nam Việt, dùng chữ Nho để phổ thông văn hóa, nhờ có sự cải tạo văn hóa ấy mới chống được Mông Cổ, một sức mạnh qua thế giới lúc bấy giờ.
Trần suy, Hồ Quý Ly cướp ngôi, lúc ấy ý thức kiến thiết Trần đã cằn và trái thời không hợp với quốc dân. Quý Ly có tài nhưng không thành nên việc xã hội không làm nổi trừ đạo Phật, cải
20 năm Minh chiếm cứ, dân bị bắt buộc theo Tàu, phải mặc áo Minh, sách vở phải bị tịch thu đem về Tàu đốt đi, bắt dân phải tìm ngọc trai, săn voi trên rừng để cống hiến mọi thứ thật là đau khổ.
Nhưng có sự đè nén thì sự quật cường càng cao, vì vậy mà có cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của vua
Vua Lê lên làm vua lúc ấy như trong cái nhà sụp đổ, nên việc chỉ là sửa soạn, đối nội còn vướng dòng dõi nhà Trần cùng trăm người ủng hộ, nên đối ngoại cũng là một việc gian nan về ngoại giao, về phía quốc dân thì tinh thần đã lên cao, sự cải tạo những chế độ cũ là cần thiết, nhưng mà vua
Một việc đáng ghi nhất là việc làm lại quốc sử lấy gốc từ đời Hồng Bàng, có lẽ đo là do các kết quả kê cứu từ đời nhà Trần đã tìm ra được những gốc gác xưa mà vì thế quân Minh mới cho thu hết các sách vở của ta đem về làm lăng chăng? Sau đời
a. Tuy Tây Sơn khi đã thống nhất lại muốn xây dựng quốc gia theo lối quý tộc của các vua chúa trước, trái với ý thức dân tộc thời bấy giờ.
b. Làn sóng Âu Châu đã tràn sang mạnh mẽ, người đón được làn sóng ấy và chiều theo nó là phe cừu địch của Tây Sơn, tức là Nguyễn Ánh, dòng dõi chúa Nguyễn có nhiều âm đức với dân phía Nam nước Việt từ Quảng Bình đến Cà Mau.
2.4. Dân Hóa Kỳ
Theo thời kỳ này có thể bắt đầu từ khi Gia Long nhờ quân Pháp (do cố đạo Bá Đa Lộc) làm môi giới để dứt nhà Tây Sơn mà thống nhất cả nước. Như trên đã nói, sở dĩ vua Gia Long xây dựng được cơ nghiệp tuy có nhờ ở sự võ trang của người Pháp và Tây Ban Nha nhưng ở trong lại có bọn quý tộc và sức dân chúng lúc ấy phân tán sự phản đối của Tây Sơn và phần nào bọn quý tộc chịu ảnh hưởng của văn hóa Tàu giữ đỡ nên vua Gia Long lên ngôi rồi thì từ pháp luật cho đến việc học đều chịu ảnh hưởng Tàu rất nhiều, tuy đến đời Minh Mạng cũng có ý muốn gây một văn hóa riêng của nước nhà như việc bắt phụ nữ Bắc Việt mặc quần không được mặc váy, như câu ca dao:
Tháng tám có chiếu vua ra,
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thời phải lột quần chồng sao đang.
Những ảnh hưởng của Tây Sơn rất mạnh, thêm vào đó ảnh hưởng của Thiên Chúa Giáo dồn dập đến cũng không kém phần mãnh liệt, vì vậy kiến thiết thời ấy có ba phái:
1. Thiên về Hán học (bọn quan liêu quý tộc).
2. Thiên về chữ Nôm (bọn học giả đi sát dân chúng hay bị ảnh hưởng).
3. Thiên về Tây học (theo đạo Thiên Chúa).
Văn hóa bị ba trào lưu giao động nên việc kiến thiết rất là tròng trành không vững đến đời Thiệu Trị trở đi, thế lực phía Tây (theo đạo) lại mạnh mẽ và thế lực phía theo Hán (triều đình quan liêu) cũng mạnh trở thành xung đột (giết đạo) dân chúng là vật ở giữa bị lợi dụng đã tranh giành, gây ra nạn mất nước từ cuối đời Tự Đức.
Trước cái nạn mất nước ấy phái duy tân cải cách nổi dậy, có cố đạo ủng hộ (Nguyễn Trường Tộ) nhưng phái thủ cựu (bảo thủ) văn hóa Tàu phản đối nên phái trên thất bại rồi Pháp dùng vũ lực can thiệp chiếm nước, sĩ phu (quan lại và học trò) đứn g lên chống lại tức là Đảng Cần Vương, nhưng việc thất bại, nhà vua xin hàng, sĩ phu bèn lập ra Văn Thân để chống. Khi Văn Thân thất bại, phái Duy Tân đổi mới lại quật dậy và đại biểu là
Việc nổi dậy của phái Duy Tân ta có thể chia ra làm 3 thời kỳ:
1. Từ 1900 đến 1918.
2. Từ 1919 đến 1939.
3. Từ 1940 đến 1950 và tiếp đến 1951-2000.
Về thời kỳ thứ I vừa vận động văn hóa dung hòa cả Á lẫn Âu ở trong nước để thức tỉnh dân chúng cùng giác ngộ mưu việc cải tạo xã hội và chống xâm lăng, vừa tìm ngoại viện ở các nước mạnh ở Á Đông để giúp sức cho mà khôi phục lại đất nước. Phong trào cắt tóc ở
Đến thời kỳ thứ II là sau thời kỳ Thế Chiến Thứ Nhất 1914-1918, lúc ấy bộ mặt thực dân của đế quốc đã rõ rệt. Sự ỷ lại vào người ngoài bất cứ v ề văn hóa hay về vũ lực đều không có ý nghĩa gì, nên từ đấy trong việc cách mạng luôn luôn kháng ngoại (địch), dân tộc đi sang một giai đoạn khác. Vì vậy mà có sự thành lập các đảng phái chính trị xu hướng khác nhau, bọn thân Pháp thì níu lấy chủ nghĩa Pháp Việt đề huề là lý thuyết của một tên Việt gian viết ra rồi đổ ẩu cho cụ
Phái thân Pháp cũng có hai phái, một phe chân chính như cụ
Sau khi mấy đảng phái này bị đàn áp tan rã, thời cuộc thế giới mỗi ngày một khẩn trương, cuộc chiến tranh của toàn quốc tất phải phát xuất, các đảng phái lại ngấm ngầm nhỏm dậy từ năm 1936 trở đi. Các đảng phái có ba xu hướng, xu hướng Nhật vì Nhật gần hơn và có thể lợi dụng để đánh đuổi kẻ thù chung là Pháp, một số nữa có liên lạc với Cộng Sản và Đồng Minh, quân quốc gia có khuynh hướng Đồng Minh. Nga Tàu gây thành một thế ganh đua chia rẽ thù nhau, tuy vậy trong sự ganh đua chia rẽ ấy gây thành một cuộc liên minh thống nhất các đảng cùng chung một xu hướng Cộng Sản thân Nga, Quốc Gia thân Tàu và một phái quốc gia thân Nhật. Ba phái trên, phái thân Nhật thì hiện nay Nhật thất bại đã mất lập trường. Còn hai phái Cộng Sản Quốc Gia đương công khai phát động, nhưng ta phải xem chủ trương hai phái ấy có hợp với nguyện vọng của dân chúng và đúng với lịch sử quá khứ và hiện tại không? Lịch sử ta trên một vạn năm nay là một cái dây đấu tranh truyền kiếp, không phải mới gần đây mấy chục năm bị Pháp thuộc, các cuộc cách mạng ấy đều lấy dân tộc làm tất yếu, và muốn đạt được thành công, văn hóa lại là một điều tất yếu hơn nữa, nếu chỉ vận động cho dân tộc g iải phóng mà không có văn hóa chắc chắn thích hợp làm xu hướng cho dân tộc (nghĩa là phải có một nền triết học mới, nghĩa là chủ nghĩa mới, v.v...) thì dù có thành công cũng chỉ là tạm bợ mà thôi. Văn hóa của dân tộc căn cứ vào lịch sử, cái quá vãng của l ịch sử có lâu dài thì cái tương lai của dân tộc sau cuộc vận động mới được vững bền, như lời nhà nữ văn sĩ Starel về thế kỷ 19 viết rằng: “trong bất cứ một phong trào thời đại nào, người ta phải ngoảnh lại cái quá khứ sâu xa bao nhiêu thì cái công lực phát triển ra tương lai của cái phong trào ấy cũng được dài bấy nhiêu ”.
Bởi vậy chủ trương của chúng ta là ngoảnh lại cái quá khứ một vạn năm của lịch sử để đặt định một tương lai xa rộng vô cùng cho dân tộc.
Nên thời kỳ quyết định của dân tộc Việt là bắt đầu từ đây, nghĩa là từ năm 1939 đến 1950 cho đến 2000.
Chúng ta phải dựa vào vết đi của lịch sử mà đặt định một đường lối cho tương lai, nhưng không xa lìa lịch sử của nhân loại và dân tộc, trái thế chẳng những là vong bản mà sẽ còn bị tiêu diệt trực tiếp hay gián tiếp.
3. PHÊ PHÁN VÀ KẾT LUẬN
Như đoạn trên đã nói, lịch sử Việt là một cuộc đấu tranh liên tiếp từ xưa tới nay có non một vạn năm.
Căn cứ không phải là một sự hàm hồ vu khoát mà là nhận định xác đáng hiển nhiên, mặc dầu về đời Đông Châu, Khổng Tử đã hủy bớt điển tích xưa mà soạn lại điển tích mới thông dụng của nòi Hán, nhưng trong các sách ngoại ký, tạp ký của Tàu vẫn cho ta nhận thấy những cái dấu vết ngàn xưa của dân tộc Việt. Hơn một vạn năm trước, giai đất triều lưu sông Hoàng Hà lên đến núi Thái Sơn là cuộc tranh giành rất kịch liệt giữa các dân tộc mà trong đó có dân tộc Việt đã nắm một thắng thế khá lâu. Lại theo các khảo sách và khảo cổ Âu Tây, Nhật và cả
Lại xét về địa giới của Tàu về thời ngang với đời Hồng Bàng ta, phía Bắc chưa qua An Sơn, Tây chưa qua Lưu Xá, Đông chưa qua Đông Hải, phía Nam chưa qua Hoàng Sơn (Hà Nam) còn địa thế của giống Việt thì bao hàm tất cả Ba Thục xuống Miến Điện (ăn thông ra Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân lộn về triền sông
Dân Việt sở dĩ phải lưu tán rời rạc ra, rồi lập ra nhiều nước Sở, Ngô, Việt, Văn Lang, Đông Âu, Nam Việt, Chiêm Thành, Nam Chiếu, Nam
Sau cuộc thất bại của lực lượng nước Âu Lạc của An
Từ trước dân tộc Việt (ở nước ta và ở các nơi) nào cũng sẵn sàng tranh đấu, đủ can đảm tranh đấu nhưng không bật hẳn trội lên được, xét nguồn gốc chỉ vì đã thất bại trên văn hóa từ xưa, sự thất bại này bắt đầu từ khi mất Thái Sơn, mất Hà Đồ Lạc Thư cho nên đến đời Hồng Bàng dù có hết sức gom góp cũng chẳng sao chỏi lên được. Đến khi Hồng Bàng đổ, Tàu xâm lăng, Hán đô hộ, ảnh hưởng văn hóa luôn luôn dồn dập đến, các dân tộc Việt ở Tây Nam lại bị các sức văn hóa của Ấn Độ tràn lan xuống, nên cái lực lư ợng để lập cước (chân đứng) và phát triển cùn đi rất nhiều, dù chưa đến nỗi bị xóa nhòa hẳn.
Hơn 100 năm nay, sau khi bị ảnh hưởng văn hóa của Hán và Ấn, dân tộc ta lại bị ảnh hưởng văn hóa của Âu Tây, nhưng cái hay cặn bã thời nhập cảng tới, đã có một số người thấy lạ vồ vập lấy khiến biết bao tai họa. Lịch sử Việt trên một vạn năm đã cho ta biết nhiều kinh nghiệm để chúng ta đặt định bước đường đi của dân tộc từ giai đoạn này trở đi, giai đoạn hiện nay đã cho chúng ta thấy rõ thế nào là con đường sống, thế nào là sống, vì các mặt nạ của mọi thứ giả dối mỗi khi xảo quyệt tất yếu đã cởi mở ra sau trận Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai này.
Người lãnh đạo cho dân tộc không thể lợi dụng một cách mơ hồ như thế mà gọi là thành công.Muốn thành công phải có một chủ trương triệt để từ hình thức đến nội dung theo xu hướng của dân tộc mà điều kiện văn hóa là điều kiện tất yếu.
Chúng ta chỉ có thể sống lâu dài bằng cái quá khứ lâu dài của lịch sử của giống nòi, chúng ta không nên mưu mô, tranh cướp của ai, nhưng chúng ta tránh đừng để ai tranh cướp hay tiêu diệt ta, muốn của người, dựa vào người khác giúp chỉ là tự mình hóa ra người, nô lệ cho người, rồi đi đến chỗ chết hẳn.
Chúng ta là nòi Việt, chúng ta phải mưu cứu vãn lấy ta, nòi giống ta chẳng những chỉ ở trên dải đất chữ S theo bờ bể Đông Hải mà còn ở nhiều nơi.
Chúng ta bị yếu vì giống nòi ta đã bị rời rạc, nếu chúng ta lại tái kiến được thời đoàn viên xưa kia, chúng ta mạnh mẽ, vô cùng mạnh mẽ để sinh tồn, để giữ gìn nòi giống, chứ không phải để xâm lăng kẻ khác.
X. Y. Thái Dịch Lý Đông A
1943 (4822 tuổi Việt).
No comments:
Post a Comment