Monday, February 15, 2010

Sự Thật Đằng Sau Chiếc Yếm Bỏ Ngỏ

Tham Khảo

TTT-1Gần đây Hà Nội tưng bừng với cuộc triển lãm ảnh Để hiểu hơn về một Hà Nội xưa, do tạp chí Xưa và Nay phối hợp với Thư viện Hà Nội tổ chức. Báo chí toàn quốc đều loan tin và viết bài phóng sự về cuộc triển lãm hiếm có đã quy tụ được nhiều nhà sưu tập ảnh, trong đó có nhà sưu tập bưu ảnh nổi tiếng người Pháp Philippe Chaplain.

Trong số các bài viết, bài “Lý lịch bằng ảnh của một thuộc địa” của Kiều Trinh gây sự chú ý đến người đọc nhiều nhất. Nó tạo sự ngạc nhiên không những bằng vài tấm ảnh áo yếm của phụ nữ bị bóc vỏ mà còn bằng những lời tuyên bố đáng suy ngẫm của một hội viên hội khoa học là ông Lê Cường và những nhận xét của nhà nhiếp ảnh Hữu Bảo.

Đây là một trích đoạn:

Trong số hơn 100 chủ đề được trưng bày trong triển lãm này, những tác phẩm về sinh hoạt hàng ngày thu hút người xem hơn cả. Một chủ đề được người xem quan tâm và đặt nhiều dấu hỏi là áo yếm. Điều kỳ lạ với người xem là độ “hở hang” của những phụ nữ này. Trái với quan niệm “hiện hành” của nhiều người về sự kín đáo của người Hà Nội, phần lớn người trong ảnh đều mặc áo yếm mà hở ngực. Chiếc yếm chỉ che kín phần giữa ngực, còn hai bầu ngực thì lại hoàn toàn lộ ra!

Về điều này, ông Lê Cường, hội viên hội Khoa học lịch sử nói: “Điều này chứng tỏ, nho giáo đã không chạm tay đến tất cả mọi người trong xã hội. Và trong dân gian, tín ngưỡng phồn thực vẫn có sức sống riêng. Điều này không chỉ thể hiện rõ qua những cảnh yêu đương trên những thạp đồng Đào Thịnh, bia chùa Tứ Liên mà còn tồn tại trong sinh hoạt thường ngày. Và ngay cả những người có ý thức nho giáo thì các cụ cũng chỉ nho lúc đông người thôi. Điều đó xin được khẳng định là không hề dung tục”.

Ông Cường cũng cho rằng không nên nghi ngờ về tính “dàn dựng” phi thực tế của bộ ảnh này bởi chúng được xây dựng trên tinh thần dân tộc học rất rõ nét. Tuy nhiên, chính vì thế, bên cạnh tính tư liệu, nó không tránh khỏi cái nhìn về người Việt Nam như một dân tộc lạc hậu.

“Sắp xếp chân thực”– dòng chảy khác của nhiếp ảnh

Cũng đánh giá cao tính chân thực của các tác phẩm trong triển lãm, nhà nhiếp ảnh Hữu Bảo nhận xét: “Những bức ảnh ở đây thể hiện rất rõ tâm thế của một “nước lớn” khi tiếp cận những thông tin lý lịch bằng hình ảnh của các thuộc địa của mình. Với những tấm bưu thiếp đẫm ý thức quảng bá du lịch, người xem sẽ hiểu, xứ chồng con mình đang sống là như thế này”. “Các tác phẩm được chụp bởi những tay máy chuyên nghiệp và điều quan trọng là họ rất tôn trọng văn hoá…”

Càng nhìn những tấm ảnh hở hang của phụ nữ Việt Nam xưa, tôi càng nghi ngờ, càng thấy rõ tính dàn dựng phi thực tế trong chủ ý của người chụp và dã tâm của người phổ biến chúng vào bưu thiếp như một phương tiện quảng bá ngành du lịch hay một mưu đồ chính trị gian trá của Pháp quốc thời ấy.

Nếu nhìn sâu hơn, chúng ta thấy những bức ảnh này có sự sắp xếp của một nhiếp ảnh gia không chân chính, dù khung cảnh được xây dựng bằng những nét mộc mạc bình dị của người phụ nữ lao động thường nhật. Nó thiếu tự nhiên dù đã được dàn dựng bằng người thật và những vật liệu làm cho giống như thật. Đó cũng chính là gian ý nửa hư nửa thực, mập mờ đánh lận con đen của người chụp những tấm ảnh khoả thân này.

Hãy nhìn vào khuôn mặt người mẫu trong tấm hình ba cô gái đang ngồi (hình số 1), có một cô đang cầm dọc tẩu hút thuốc. Chính giữa là một cô bé có lẽ với động tác châm thuốc, còn hai cô kia đều mặc yếm, nhưng cả hai chiếc yếm bị vén qua một bên với chủ ý phanh ngực ra. Khuôn mặt hai cô gái mang đầy vẻ sượng sùng, khổ não, đau đớn và tủi nhục hơn tâm trạng mong chờ phút sung sướng của một người đang đợi hút. Vì sao? Ta có thể tưởng tượng ra đằng sau chiếc yếm bỏ ngỏ kia là một cường lực vì người chụp là người Pháp, kẻ thống trị hét ra lửa, kẻ nắm trong tay thân phận người dân bị trị.

Còn cái dáng ngồi chàng hảng mời gọi của một trong hai cô gái ngực trần nữa, tiết lộ rõ ràng ở đây có sự sắp đặt của một tay phó nhòm chuyên nghề chụp ảnh khiêu dâm!!!

TTT-2Tôi trộm nghĩ cái thời xa xưa đó (có thể là 1888), chắc chưa có nghề người mẫu khoả thân cho các tay chụp hình chuyên nghiệp tha hồ chụp như bây giờ, nhất là các tay phó nhòm lại là người Tây phương. Và vào những năm người Pháp bắt đầu đô hộ chúng ta chưa có phong trào lấy Tây cũng như sự hiện diện của nhà thổ (ra đời khoảng 1940 trở đi). Vậy thì ba giả thuyết: người mẫu chuyên nghiệp, vợ Tây và gái giang hồ có thể bỏ qua một bên.

Chỉ có giả thuyết cuối cùng là những người dân lao động quê mùa này bị ức hiếp, bắt buộc phải tuân thủ làm theo mệnh lệnh “bắt cởi phải cởi, bắt chết phải chết” của người chủ nô lệ.

Khuôn mặt nô lệ buồn bã, chịu đựng của tấm hình số 2 cũng vậy, nó thuần túy một tấm hình khoả thân trần trụi không một nét nghệ thuật văn hoá nào cả.

Chiếc áo yếm nô lệ này không có nét hấp dẫn nửa kín nửa hở nào như các nhà phê bình ngày nay hay ca tụng vẽ vời đầy rẫy trên các trang web. Nó chỉ mang một tính lịch sử đau đớn của tổ tiên ta mà thôi.

Tôi rất ngạc nhiên gần như sốc khi thấy các tấm hình này và tự hỏi không lẽ các bậc phụ nữ tổ tiên ta ngày xưa hở hang đến thế sao. Trong khi từ bé mẹ tôi răn dạy tôi rằng: “Con gái phải kín đáo, áo mặc chớ hở hang, đi đứng nhẹ nhàng khoan thai, ngồi thì khép chân lại, lúc nào cũng phải giữ ý tứ”.

TTT-3

Hỏi lại thì mẹ tôi trả lời thế này. Thời bà ngoại tôi sống, lúc đó chưa có áo ngực (su chiêng) thì mặc áo yếm, nhưng áo yếm chỉ là áo lót, bên ngoài phải mặc áo ngắn, áo cánh hay áo dài. Khó khăn hơn thì phải bịt chặt ngực lại hay nén ngực chứ không phải hớ hênh vậy đâu. Thời Pháp thuộc, người dân ai cũng sợ lính Tây lắm, nhất là lúc chúng qua làng đi ruồng bố. Mẹ kể, em gái của mẹ khi đó gánh hai gánh phân đi trên đường làng, tụi Tây thấy la “gái gái” và ào tới lột quần áo cưỡng hiếp cô (mặc cho phân rơi rớt) ngay trên đường làng trước mắt bao nhiêu người mà không ai dám can thiệp. Do đó việc chúng bắt phụ nữ cởi truồng hay trần cho chúng chụp hình là chuyện thường tình.

Bố tôi thì kể thêm về cái yếm như thế này. Gia đình bên mẹ tôi khá giả nên còn có áo mặc ra ngoài chiếc yếm, còn bên bố tôi hồi ấy nghèo quá. Bà nội tôi chỉ có độ một, hai cái áo thôi lại còn bị vá chùm, vá đụp. Bà thường thường chỉ có mặc yếm ra đồng làm việc mà cất chiếc áo đi sợ rách, sợ khi thời tiết trở lạnh, không có áo mà mặc. Năm Ất Dậu, nạn đói tràn lan vì chính sách thâm hiểm của Nhật – Pháp nhằm dồn cả một dân tộc vào thảm họa diệt chủng. Bố tôi đi làm phu lục lộ không đủ tiền mua thực phẩm cho cả gia đình. Bà chịu hy sinh nhịn đói mà chết, để nhường miếng ăn cho chồng, cho con. Mỗi lần nhớ tới bà, bố tôi lại rơi nước mắt ân hận không nuôi nổi mẹ phải để mẹ chết vì thiếu ăn.

Qua câu chuyện trên, tôi biết thêm là người phụ nữ nhà quê thời ấy vì nghèo không đủ quần áo nên phải mặc phong phanh chiếc yếm không như vậy (nhưng rất kín đáo, che hai bầu ngực), chứ không phải vì đó là một thứ “văn hoá phồn thực” vượt ra ngoài vòng rào nho giáo như ông Lê Cường, hội viên Hội Khoa học Lịch sử phát biểu.

Nếu xét theo văn hoá truyền thống, phụ nữ Việt Nam thời ấy ăn mặc rất kín đáo, trong lệnh vua phép nước cũng có ghi chép rõ ràng. Theo tài liệu sách Đại Nam thực lục tiền biên, dưới thời các chúa Nguyễn, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong. “Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở….” Riêng tại Kinh đô Huế, nơi luật lệ thực thi nghiêm ngặt, đàn bà ra đường thường mặc áo dài kể cả lúc đi bán hàng rong. Tục lệ này còn lưu giữ cho tới bây giờ.

Nếu xét theo thực chứng, chúng ta xem thêm rất nhiều những bức hình chụp cảnh dân cư Hà Nội lúc đó, ta thấy phụ nữ ăn mặc rất đàng hoàng, kín đáo thậm chí đến nỗi bít bùng hai ba lớp nữa kia. Chỉ có vài ba tấm hình phụ nữ ở trần này nằm lẫn lộn vào gây ấn tượng mạnh làm bẻ cong sự thật.

Khi tôi viết bài này, qua những email truyền đi trên mạng thì tôi và bạn bè tôi, hầu hết ai cũng nhận được các bức hình khoả thân với tựa đề “Hình ảnh phụ nữ VN khoả thân của đầu thế kỷ trước” được phát tán và lưu hành khắp nơi. Loạt hình đó, theo lối sắp xếp dàn dựng cảnh và người thì ai cũng đoán ra cùng một nhiếp ảnh gia là tay chơi thích chụp những hình ảnh khiêu dâm. Trong bộ sưu tập ảnh hoàn toàn khoả thân này có vài ba tấm hình hở ngực đã được đem ra trưng bày trong buổi triển lãm vừa qua. Tôi còn lưu giữ những tấm ảnh này nhưng chỉ đưa ra ba tấm ảnh hở ngực còn những tấm kia hoàn toàn trần trụi và mang đầy vẻ dung tục.

Theo tôi, việc đem những tấm ảnh hở ngực trưng bày chen lẫn với những tấm ảnh và bưu thiếp đứng đắn về Hà Nội xưa dễ làm người xem lầm lẫn. Điều tai hại là hậu ý tạo nên cái nhìn sai lạc về một văn hoá và lịch sử của một dân tộc. Ai xem xong cũng tưởng thời ấy phụ nữ Việt ta bệ rạc bên bàn hút, nhếch nhác thả ngực trần như vậy kể cả lúc quang gánh lao động.

Điều đau lòng hơn là người Pháp đã dùng những tấm hình ngực trần ấy làm bưu thiếp. Ngày ấy bưu thiếp rất phổ thông và đa dụng. Người ta sử dụng bưu thiếp với nhiều mục đích như phát triển nghệ thuật, thương mại như du lịch và chính trị như truyền bá một tư tưởng nổi loạn hay hình ảnh một lãnh tụ.

Với một ý đồ chính trị là khai thác chiếc yếm bỏ ngỏ, người Pháp đã dùng những tấm bưu thiếp này lăng nhục phụ nữ Việt Nam như một dân tộc thuộc địa mọi rợ. Nó cũng có tác dụng lôi cuốn đàn ông Pháp càng thấy thích thú hơn trên con đường nhập ngũ viễn chinh qua Việt Nam.

Bàn rộng thêm một chút về chiếc áo yếm xưa

Thực ra, đôi bờ vú luôn luôn là niềm hãnh diện của phụ nữ, là niềm hoan lạc của phái nam, mà cũng là thức ăn thiên nhiên dinh dưỡng vô bờ của trẻ nhỏ. Chiếc yếm che ngực đã được tạo ra như một trang phục truyền thống không những để che thân mà còn là một vật làm đẹp (yếm lụa, yếm gấm) cho các phụ nữ khá giả có tiền, có của. Việc kín/hở hay cởi /mặc áo yếm đã móc ngoặc vào đức hạnh các phụ nữ như một đặt để trói buộc vô hình. Người đàn bà Việt Nam bị các ông đồ Nho bắt phải đậy, các ông Tây buộc phải cởi, thật là tội cho họ. Họ phải câm khi bị lăng mạ, bị bóp cổ, bị hành hạ, đánh đập, giết chóc, đối xử phi nhân như một món đồ chơi mà không có chọn lựa, không có tiếng nói. Sống mà như hấp hối, không cười, không vui, cô thế và cô đơn. Đã thế, nỗi thống khổ của cái nghèo, cái sợ, cơn đói kinh niên, áp lực chồng con theo đuổi họ mãi như cái bóng thiết tha nhất. Họ sống lặng lẽ như những bóng ma. Nhưng khác với bóng ma ở chỗ họ kiên cường phục vụ chồng, nuôi nấng con cái và nhất là hy sinh mạng sống lúc cần phải hy sinh. Như câu chuyện của bà nội tôi, của người đàn bà trong truyện “Anh phải sống” của Khái Hưng.

Pascal có một suy tưởng, viết tóm tắt như thế này: “Con người, ai cũng có dĩ vãng, kỷ niệm là dĩ vãng của một cá nhân. Quốc gia nào cũng có dĩ vãng, lịch sử là một dĩ vãng của một dân tộc! Cá nhân, ai cũng yêu kỷ niệm của mình thì dân tộc nào cũng phải yêu lịch sử của họ.”

Tôi là một công dân Việt Nam, dù dĩ vãng dân tộc tôi thế nào, tôi vẫn yêu mến lịch sử dân tộc tôi. Dù những hình ảnh phụ nữ Việt Nam xưa bị lăng nhục như thế nào tôi vẫn yêu mến họ. Những người đàn bà yếu đuối kia là tổ tiên tôi, họ là mẹ là bà cố, bà sơ của người Việt chúng ta hiện nay, dưới bất cứ hoàn cảnh nào (kể cả khi lịch sử bị bẻ cong) chúng ta cũng cần phải yêu quý họ, phải không các bạn?

Trịnh Thanh Thủy

* Bài viết này là quan điểm cá nhân trong suy luận và giả thuyết riêng của người viết. Từ những tư duy này nếu có xảy ra một ngộ nhận đáng tiếc nào, thì việc ấy ngoài ý muốn của người viết.

Tài liệu tham khảo:

Kiều Chinh, “Lý lịch bằng ảnh của một thuộc địa”
Dân Hùng, “Để hiểu hơn về một Hà Nội xưa”

© 2010 Trịnh Thanh Thủy

No comments:

Post a Comment