Saturday, March 20, 2010

Người tìm chữ cổ

Không phải là nhà khoa học, không hưởng lương chuyên môn nhưng 50 năm qua, dù thế chấp mất sổ hưu để vay tiền, dù quỹ thời gian ngày một ngắn và dù mang trong mình nhiều thứ bệnh tuổi tác nhưng ông sẵn sàng lên đường bất cứ lúc nào vì chữ Việt cổ…


“Học sinh” thời… vua Hùng


Một người bạn đưa tôi đến con phố nhỏ ở phường Tân Dân, thành phố Việt Trì và gõ cửa một ngôi nhà giản dị. Gia chủ là người đàn ông khá cao lớn, mặt vuông, miệng rộng, vẻ quắc thước pha chút phong trần. Bên cạnh bàn nước là một tủ sách chia ngăn đơn giản, nhưng điều lạ là mỗi ngăn tủ đều được ghi dấu bên ngoài bằng những hình vẽ tôi chưa thấy bao giờ. Phía trong là những cuốn sổ, sách, tài liệu cũng viết ngoài bìa thứ hình uốn éo vươn dài như vậy.


Ông Xuyền và những con chữ ông khảo cứu

Chủ nhà được giới thiệu là nhà giáo Đỗ Văn Xuyền, trong văn chương thì bút danh là Khánh Hoài. Câu chuyện bắt đầu và xuyên suốt của ông cũng chính là những hình vẽ lạ mắt kia. Ông nói đó là chữ và ông có thể đọc được. Chỉ tay vào những ký hiệu ngoài ngăn tủ ông đọc: “Lịch sử, tài liệu từ hiện vật, tài liệu thư tịch, sắc phong, ngọc phả… Còn những cuốn sách này là hồ sơ về đền Mẫu, lịch sử Thiên cổ miếu… Tất cả những thứ gì của riêng tôi mà cần ghi bằng chữ thì tôi đều dùng chữ của tổ tiên”.

Ông đưa ra những cuốn sổ tay, lịch ghi chép và cả những phong thư… của ông cũng đều ghi bằng “chữ Việt cổ có từ thời vua Hùng”, ông khẳng định. “Buổi lập nước, triều đại vua Hùng, chúng ta có một nền giáo dục rực rỡ. Chúng ta đã có chữ viết trước Hán”.
Ông chứng minh bằng tấm bản đồ Việt Nam tự tay ông vẽ với những ký hiệu đánh dấu sơ đồ các ngôi đền thờ thầy giáo, học sinh và địa điểm trường lớp qua các thời vua Hùng, An Dương Vương – Triệu Đà và Hai Bà Trưng. Tấm bản đồ đánh dấu cả những ký hiệu về dấu tích chữ Việt cổ còn sót mà ông tìm thấy trên bãi đá cổ, trên hiện vật và tài liệu cũ.
Tất cả hơn 60 địa điểm trải dài từ Hà Tĩnh trở ra miền Bắc. Bản đồ được vẽ tay rất tỉ mỉ… “Vì anh là người Việt Nam làm những công việc liên quan đến chữ nghĩa nên tôi tặng anh thứ này”, ông giáo già mở tủ, trao khách một quyển sổ nhỏ bằng bàn tay, bìa và ruột cùng một thứ giấy. Nhan đề cuốn sổ: “Giải mã chữ Việt cổ (tóm tắt sơ lược)”.
Bên trong là hai hàng ký tự La-tinh và Việt cổ viết song song. Chữ “i” la tinh viết thế này thì tương ứng đọc là “i” chữ Việt cổ viết thế kia. Sách có tổng số 16 trang ghi các phần nguyên âm đơn, nguyên âm ghép, các phụ âm và một số thí dụ ứng dụng ghi các từ, ngữ Việt Nam bằng chữ Việt cổ. Có lẽ sợ có sự nhầm lẫn dạng chữ này với một số ký tự tương tự nên cuốn sách nhỏ còn dành phần phân biệt chữ Việt cổ với chữ Thái đen, Thái trắng, đông bắc Thái Lan, Khăn tì Ấn Độ, Khoen Myanma, Lào xổng và Lự mới Vân Nam.
Toàn cuốn sổ đều được viết tay, đánh số trang, đóng gáy và photo làm nhiều bản. Bất cứ ai là con cháu Lạc Hồng có chút tâm linh với nguồn cội, ông đều tặng không cuốn sổ như một sự “phổ cập chữ Việt cổ” tự nguyện và kỳ vọng.


Những người thầy ngày dựng nước
Hơn 50 năm trước, về với đất tổ với cặp giáo án và hộp phấn, ông là một anh giáo tuổi 20. Biết rằng mình đang sống ở nơi cắt rốn, chôn rau của dân tộc ngàn năm linh khí. Thế nhưng lịch sử huyền bí, giặc dã, biến thiên cũng đã ngàn lần chôn lấp. Cho đến một hôm tham gia cùng đám học trò lao động ngoại khoá, ông giật mình thấy các em đào lên hàng rổ những rìu, dao, búa… đá.


Thiên cổ Miếu, thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, TP Việt Trì, nơi thờ hai vợ chồng thày giáo Vũ Thê Lang, thời vua Hùng.

Ông bắt đầu để ý và thấy những đám ma, những người đào giếng, xây nhà… đưa lên những cổ vật mà nhìn vào nó như thấy hình bóng tổ tiên từ huyền sử. Ông bắt đầu lục tìm những tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước về các di tích khảo cổ nơi này. Năm 1989, khi đến xóm Quế thôn Hương Lan xã Trưng Vương, Việt Trì, ông thấy một ngôi miếu đổ nát. Cửa miếu có hai cây táu lớn đã rất lâu đời. Một cây nở hoa vàng và một cây nở hoa màu bạc. Miếu có tên Thiên cổ miếu. Tìm hiểu ông biết dân làng còn đào được ở đây một thanh kiếm đồng, một cái bát đồng có ghi thứ chữ lạ.

Đồi Giàm gần đó cũng được tìm thấy nhiều đồ đá, trong đó có cây rìu cũng chạm kiểu chữ này. Tìm ngọc phả soạn từ thế kỷ XVI nói: Miếu thời thầy giáo Vũ Thê Lang quê ở Mộ Trạch, Hải Dương và vợ là Nguyễn Thị Thục quê ở Đông Ngàn Kinh Bắc lên đây dạy học thời vua Hùng thứ XVIII. Hai người cùng mất ngày 2/2 năm 288 trước công nguyên, táng trong lòng miếu. Tìm sử sách Tây, Tàu, ta và ghép nối những câu chuyện cổ tích, dân gian; đến tận nơi nghi vấn tìm hiểu, ông đã “gặp” được nhiều thầy giáo khác của thời Vua Hùng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng.
Đó là thầy Nguyễn Cầm Công và Nguyễn Công Ứng từ chùa Hương về Việt Trì dạy học. Làng Bồng Lai, huyện Từ Liêm có Hoàng Trụ, con công chúa Mỵ Châu Hoa theo học thầy Lỗ Công… Thời Hai Bà Trưng các tướng tá đều được học hành chu đáo như Lê Ả Lan, Lê Anh Tuấn ở Đường Lâm, Sơn Tây; tả tướng Phật Nguyệt, nữ tướng Lê Chân, nữ tướng Thiều Hoa… đều được sử chép là học chữ rất tài. Hai bà Trưng còn được mẹ là bà Man Thiện đón vợ chồng thầy Đỗ Năng Tế và Tạ Cẩn Nương về dạy chữ tại nhà…
Có thầy, có trò thì phải có chữ. Chữ Hán chỉ vào VN từ năm 186 do Sĩ Nhiếp đưa sang. Vậy trước đó, người Việt học chữ gì? Ông cho rằng, thời đó chúng ta đã có chữ viết nhưng khi người Hán đô hộ, họ đã xoá đi. Hàng ngàn năm dài, chữ Việt cổ chỉ có thể còn những mảnh vỡ, rơi rớt trong lời ăn tiếng nói, trong những vật phẩm ngàn năm chôn vùi dưới đất và thấp thoáng trong những công trình, tư liệu của nước ngoài.
Chữ của cha ông
Ông tìm thấy bộ chữ 17 ký tự gọi là hoả tự (nhìn giống ngọn lửa cháy) của Vương Duy Trinh viết trong “Thanh Hoá quan phong” in năm 1903 đã cho rằng đây là chữ Việt cổ còn sót lại ở Tây Bắc. Vương Duy Trinh viết: “Vì thập châu (vùng Tây Bắc) là nơi biên viễn (biên giới xa) nên dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học Hán tự”. Ông tìm thấy bộ chữ Thái thổ tự của Phạm Thận Duật phát hiện năm 1855 cũng ở vùng Tây Bắc.


Đây là loại chữ ông Xuyền cho là chữ Việt cổ

Ông nhận ra những sự ghi chép, suy luận đầy vô lý khi học giả này gọi đó là chữ của người Thái. Ví dụ: Chữ người Thái nhưng lại không ghi được những từ về gia đình, nhân luân của họ… Như vậy đây không phải chữ Thái. Ông Xuyền cho rằng, dân tộc ta nhiều đời bị đô hộ, chữ viết luôn bị xoá bỏ, dân ta đã lưu giữ truyền đời bằng những tín hiệu bí mật, nguỵ trang.

Và Phạm Thận Duật đã dùng cách nói khéo đó để gửi gắm, cất giấu tinh hoa tiên tổ. Ông tìm đến sách Thông giám cương mục của Chu Hi đời Tống nói: “Đời Đường Nghiêu thứ 5 (2352 trước công nguyên) người Nam Di Việt đến chầu, hiến con rùa lớn…”.
Sách Thông chí thời này nói tiếp: Lưng rùa rộng ba thước có chép chữ khoa đẩu (con nòng nọc), ghi chép việc từ khai thiên lập địa đến nay… Sách Lĩnh Nam Chích Quái của ta cũng ghi rõ điều này. Nhà nghiên cứu Lê Trọng Khánh cũng nhắc đến chữ khoa đẩu thời tiền sử của dân ta. Ông lại dựa thêm vào kết quả khai quật của nhà nghiên cứu người Pháp Côlani năm 1923 khi tìm hiểu nền văn hoá Hoà Bình đã tìm thấy hai chiếc đĩa gốm nhỏ ở chân núi Lam Gan khắc hai chữ dáng như chữ Sĩ, chữ Thượng của Trung Quốc nhưng lại có tuổi 8000 năm trước công nguyên, khi chưa có chữ Hán.
Ông tìm lời tựa cuốn tự điển Việt Bồ La xuất bản năm 1651 ở Rôma mà tác giả đã nói rằng: Người dạy tôi là một thiếu niên bản xứ trong 3 tuần đã đọc được các thanh và từ… để suy đoán rằng thứ chữ được dạy đó chính là chữ Việt cổ. Rồi bắt đầu ông đi đến rất nhiều miền quê ghi lại lời nói của dân bản xứ, liệt kê, đối chiếu so sánh và ghi chép suy luận, lý giải bằng chữ cổ…


Những trang viết trong cuốn “song ngữ” La Tinh- Việt cổ do ông Xuyền biên soạn.

Ông luôn bị ám ảnh một lời trong sử sách Trung Quốc và của nhà nghiên cứu Lê Trọng Khánh rằng xưa VN ta từng có chữ khoa đẩu (chữ có hình con nòng nọc). Đến một đêm, đang ngồi làm việc với những dòng chữ tiền sử thì bị mất điện, thắp ngọn nến đặt trước bàn, ông thảng thốt và giàn giụa nước mắt khi thấy trên trang giấy hình ảnh những con nòng nọc đang vươn mình bơi lội. Ông cho rằng tổ tiên đã phù trợ cho ông sức mạnh về với cội nguồn. Ông đã tìm đến nhà riêng giáo sư Hà Văn Tấn một trong những nhà sử học lớn nhất lúc đó.

Giáo sư ốm đã không thể làm việc từ lâu, nhưng khi nghe ông trình bày, giáo sư đã rơi nước mắt và ôm chặt vai ông động viên hãy tiếp tục thực hiện công trình mà giáo sư chưa thể hoàn thành ở đời này. Chủ tịch nước khi đó là đồng chí Trần Đức Lương đã lên tận Phú Thọ và dành một buổi dài trao đổi với ông về chữ viết của cha ông. Chủ tịch động viên, gửi gắm nhiều hi vọng và dặn dò các lãnh đạo tỉnh hỗ trợ ông…
Trong một lần đi tìm hiểu, ông đến ngôi miếu nhỏ ở huyện Lập Thạch thờ 4 người con của Lạc Long Quân, ông tìm thấy bản ngọc phả thời Trần Thái Tông, vào loại cổ nhất hiện còn. Ngọc phả viết: “… Nghiêu thế, Việt thường thị hiến thiên tuế thần quy, bối hữu khoa đẩu…” (thời vua Nghiêu, người Việt hiến rùa thần, trên lưng có chữ khoa đẩu). Ông cho rằng, đời này còn sống ngày nào ông còn đi tìm con chữ của tổ tiên ngày đó.
Những hành trình tìm chữ
Năm 2003, một buổi chiều trời mưa như trút nước, bão giật cấp 9, nhưng nghe tin ở Sa Pa, phát hiện một bãi đá cổ hàng ngàn năm tuổi, trên đá có những con chữ lạ, thế là ông già lập tức ba lô, cơm nắm, bánh mì khô, bi đông nước, máy ảnh… bắt xe đò lên đường. Mò vào rừng, nước lũ xoắn xiết réo gào, ông già dò dẫm lặn lội 2 ngày trời thì tới được bãi đá cổ. Bàn tay già nua run run bóc từng lớp rêu. Những con chữ vừa lạ vừa quen hiện ra trước mắt. Giữa sấm chớp mưa giông, ông già đã khóc một mình giữa rừng núi đại ngàn và những nét vạch nguệch ngoạc trên phiến đá rêu. Sau chuyến đó ông nằm liệt giường 4 tháng.


Bản đồ do ông Xuyền vẽ ghi dấu những đền thờ thày giáo, học sinh thời vua Hùng đến Hai Bà Trưng

Đó là chuyến đi kinh hoàng nhất, nhưng đau đớn nhất là câu chuyện trước đó 1 năm. Đang ở Hà Nội, 4 giờ chiều nghe điện thoại báo: Ở Việt Trì có người đào được phiến đá có chữ lạ. Ông lập tức lên đường. Tới nơi, đó là một khối chất cứng giống như tảng đá lớn có nhiều hoa văn lạ nhưng người ta có thể tách mỏng ra từng miếng một. Miếng thì có hình bản đồ, miếng thì có hai bàn chân con gái rất đẹp.

Tiếc thay, hiện vật vừa đưa lên khỏi mặt đất lập tức mủn tan ra thành đất vụn. Ông lên đỉnh Trường Sơn, gặp đồng bào Cọi tìm những trang sách bằng lá cây. Vào Nghệ An tìm thấy chữ Lào và qua miền Trung thấy những viên gạch đỏ khắc ngang dọc của chữ Chăm… Đều không phải là chữ Việt. Đó là những chuyến đi thất vọng.
Ông ghé Hà Tây, Ninh Bình. Ông về Thái Bình, Thanh Hoá. Ông ngược lên Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu… Ông đã dồn tất cả những đồng lương ít ỏi, những khoản tiền thơm thảo của con cháu và những đồng nhuận bút tượng trưng của mình cho những chuyến đi. Ông thế chấp sổ lương hưu để vay tiền ngân hàng tiếp sức cho cuộc hành trình bất tận về cội nguồn. Và, mức vay đã quá lớn để đến năm 2004 ông không thể còn đồng lương nào nữa.


Trước khi rời đất tổ, ông giáo già mời tôi chén rượu. Bà vợ ông nói: Mấy năm nay chồng tôi mới có một cuộc vui thế này, tôi không nỡ ngăn, dù ông ấy đang mang trong mình tới 4 thứ bệnh. Ông ngẩng lên, ánh mắt dù cười nhưng cũng đã đục mờ. Với ông phía trước không còn dài. Câu chuyện con chữ thì đã đằng đẵng thiên thu rồi. Nhiều triều đại, nhiều nhà nghiên cứu, nhiều người con Lạc Hồng từng đi qua và vẫn đang dang dở. Ông hỏi tôi: “Còn anh, anh có thể làm gì với mấy ngày bên con chữ của tổ tiên?”

Đạo Lý - Tự Trọng
***************----------------**************

Chữ của thời Hùng Vương là loại chữ gì ? chắc chắn không phải chữ Hán và có trước chữ Hán. Trong thời phong kiến, mặc dù Nho học đã chiếm vị trí độc tôn, chữ Nho đã trở thành văn tự chính thức của Quốc gia, nhưng nhiều trí thức dân tộc vẫn không ngừng tìm kiếm một thứ chữ cổ của cha ông.

Gần đây, trong tập: Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ, do Viện Văn hoá in năm 1986, tác giả Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Như vậy, dân tôc Kinh- Việt lại không còn văn bản hay sao? Đúng là tài liệu của ta vừa bị giặc nước huỷ diệt, vừa bị ta không biết cách bảo tồn, thí dụ một tài liệu về chữ Việt cổ của gia đình cụ Lê Huy Nghiệm cũng mới bị mất sau cách mạng Tháng Tám.

Vào năm 1903 Tổng đốc Thanh Hóa lúc ấy là Vương Duy Trinh công bố việc tìm ra một văn bản viết bằng thứ chữ lạ, trông như những ngọn lửa vờn cháy mà Ông gọi là chữ Hỏa tự. Dựa vào những chữ hán ghi chú bên cạnh ông dịch được nội dung, thì ra đây là một bài thơ có tựa đề “Mời trầu” có nội dung ca ngợi tình yêu.

Vương Duy Trinh cho rằng, đây chắc chắn là chữ của tổ tiên ta từ thời các vua Hùng. Do âm mưu đồng hóa của kẻ thù, chúng tìm cách triệt phá, không để lại dấu tích của thứ văn tự cũ, nay vẫn còn truyền lại và lưu hành trong một bộ phận nhỏ xã hội. Theo nghiên cứu của Ông thì:” Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thư chữ này”

Cách đây hơn một thế kỷ, Phạm Thận Duật, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, trong thời gian làm Tri châu ở Tây bắc (khoảng năm 1855) đã phát hiện nhiều bộ chữ mà Ông cho là chữ Thái thổ tự , trong đó có một bộ chữ cái có kèm ghi chú chữ Hán. Theo mô tả của Ông, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần chắc. Còn ở Châu Mai Sơn, Châu Minh Biên có bộ chữ gồm 17 thể chữ cái theo vần bằng, 15 thể chữ cái theo vần chắc. Ngoài ra còn 11 chữ và nét phụ ở 04 bên mà Ông gọi là “tứ bàng phụ họa, sử dụng 03 thể chữ cái đảo lên, lộn xuống, ghép lại với nhau thành từ, thì đều có thể thông với văn tự Trung châu” (tức là có thể chuyển ngữ cho chữ Hán).

Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: Bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, trong đó 17 chữ vần bằng là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ họa) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Sau nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong cả nước, Đỗ Văn Xuyền sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thỏa mãn được 03 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học đề ra, đó là:

- Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không ?

- Những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc có thể hiện qua các đặc điểm của kí tự đó không ?

- Có giải quyết được các “nghi án” về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ ? (Chứng minh bằng các cuộc kiểm tra thực tế ở các địa phương, bằng cách dịch lại các văn bản còn tồn nghi và đọc các văn bản cổ mới sưu tầm)

Đây là bộ chữ ghi phát âm của tiếng nói (không phải chữ tượng hình nguyên thuỷ) có cấu tạo gần với hệ chữ la tinh của phương tây, nên rất dễ học. Tuy nhiên bộ chữ này có một nhược điểm là những chữ nguyên âm luôn thay đổi vị trí (Tứ bàng phụ hoạ). Phải mất nhiều năm nghiên cứu ông Xuyền mới tìm ra qui luật – Qui luật đặt vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ trời, đất nguyên âm đặt phía trước và trên, từ chỉ muông thú, cây cỏ nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ cha, con nguyên âm đặt phía trước hoặc sau). Để thuộc bảng chữ cái và nắm được qui luật ghép vần , người ta có thể học sử dụng được bộ chữ này để đọc, viết trong khoảng thời gian 7-10 ngày. Nhóm nghiên cứu đang đang tập trung nghiên cứu để một ngày gần đây chứng minh giả thiết cho rằng, Những nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ. Nhóm nghiên cứu rất cần sự ủng hộ của các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu khoa học của nhà nước để hoàn thiện công trình khoa học này.

Buổi thuyết trình của ông Đỗ Văn Xuyền về ” Báo cáo quá trình sưu tầm tư liệu và kết quả nghiên cứu các thầy giáo thời Hùng Vương và chữ Việt cổ” trước tết nguyên đán, tại Trung tâm Văn hóa người cao tuổi đã nhận được sự chú ý và quan tâm của nhiều nhà khoa học.

Quang Hòa

Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi cả nước khởi nghĩa giành độc lập, mùa xuân, năm 40, được ông Đỗ Văn Xuyền viết bằng chữ Việt cổ

Thầy, trò thời Hùng Vương dạy học bằng chữ gì

Trước Tết Mậu Tý, thầy giáo đã nghỉ hưu Đỗ Văn Xuyền bước đầu công bố công trình “giải mã chữ Việt cổ” tại Trung tâm Văn hóa Người cao tuổi Việt Nam, gây được sự chú ý của giới khoa học.

Thầy giáo Đỗ Văn Xuyền nói về các ký tự cổ

Từ câu chuyện về Thiên Cổ miếu…

Gần ba mươi năm dạy học, thầy giáo Xuyền luôn gắn bó với vùng đất thiêng được bồi đắp bởi phù sa của cả ba con sông Hồng, sông Lô và sông Đà. Nhưng ông không phải người gốc ở đây, chỉ là chàng rể của cố đô xưa nhất nước Việt.

Đầu đường vào làng Hương Lan có ngôi miếu nhỏ. Trước cửa miếu sừng sững hai cây táu đại thụ hơn ngàn tuổi, gốc năm sáu vòng tay người ôm không xuể. Thầy giáo Xuyền nghe ông từ kể: “Miếu đây có tên Thiên Cổ, thờ hai vợ chồng thầy giáo thời Hùng Vương, dạy học ở làng này”.

Ngọc phả của miếu ghi rõ: Thiên Cổ miếu thờ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, ông quê Hải Dương, bà quê Bắc Ninh, đến kinh đô Văn Lang mở trường dạy học thời Hùng Vương thứ 18.

Thầy giáo Lang tài đức vẹn toàn, đông người làng và quanh vùng theo học, danh tiếng vang xa. Vua Hùng nghe tin, gửi hai con gái đến thụ giáo, đấy là công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa.

Về sau cả ông và bà cùng mất một ngày, ngôi miếu nhỏ chính là nơi song táng hai vợ chồng thầy giáo của làng…

Câu chuyện về thầy giáo Vũ Thê Lang thời Hùng Vương, chứng tích còn đó những ngôi miếu và phong tục thờ cúng, đã có sức cuốn hút đặc biệt với thầy giáo Xuyền.

Phải chăng trước khi chìm đắm vào đêm dài Bắc thuộc, nước Văn Lang đã có một nền văn hiến rực rỡ?

Không chỉ để lại cho hôm nay những chiếc trống đồng Đông Sơn tuyệt hảo, cha ông ta còn để lại (đâu đó, trong những di tích như Thiên Cổ miếu) bằng chứng về một nền giáo dục, một thể chế kén chọn người tài phát triển ngay từ thời dựng nước?

Nhiều năm ròng rã, thầy Xuyền dày công sưu tầm trong các thư viện Hán – Nôm, trong ngọc phả đình miếu, và các câu chuyện dân gian, về sự học sự thi thời kỳ trước khi chữ Hán thâm nhập vào nước ta – gọi tắt là thời trước Hán.

Công sức bỏ ra dần cho kết quả hết sức đáng tự hào: Hầu khắp các tỉnh lưu vực sông Đà, sông Lô, sông Hồng, xa hơn nữa mạn Thanh Hóa, Nghệ An, đều có các bằng chứng về các thầy giáo danh tiếng và các học trò giỏi thời Hai Bà Trưng, An Dương Vương, Hùng Vương!

Thầy Xuyền bước đầu sưu tầm được 18 thầy giáo, và một con số nhiều hơn các học trò giỏi, còn ghi danh qua truyền thuyết và ngọc phả các đền miếu ngàn đời nay vẫn được nhân dân hương khói thờ phụng.

Những sưu tầm còn cho thấy từ thời Hùng Vương, việc kén tìm người giúp nước trị dân thường được tuyển chọn trong những học trò giỏi, hoặc qua việc thi cử mà khẳng định, hoặc lập được chiến công chống ngoại xâm.

Qua những kết quả trên, một câu hỏi logic lại thôi thúc thầy giáo Xuyền phải tìm câu trả lời: Thầy, trò thời Hùng Vương dạy và học bằng thứ chữ gì? Cha ông ta đã có chữ viết của riêng mình, từ thời trước Hán?

Thế là thầy giáo Xuyền lại tiếp tục dấn thân vào một đề tài mà nhiều nhà nghiên cứu đi trước đã tốn bao công sức, song kết quả chưa được như mong muốn…

Đến huyền thoại hay sự thật?

Sách Tân Lĩnh Nam Chích quái của Vũ Quỳnh (đời Lê, thế kỷ 15) viết đại ý: Thời Lạc Long Quân có người hái củi, bắt được con rùa, lưng rộng khoảng ba thước, trên mai có khắc chữ như con nòng nọc gọi là chữ Khoa Đẩu. Hùng Quốc vương đã cử phái đoàn đem rùa thần đó cống cho vua Nghiêu.

Về việc này, sách Thông Giám Cương Mục do Chu Hy đời Tống viết: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ IV (2352 trước Công nguyên) có Nam Di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”.

Sách Thông Chí của Trịnh Tiểu cũng đời Tống nói rõ hơn: “Đời Đào Đường, Nam Di Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ Khoa Đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”.

Chữ Khoa Đẩu được nói tới trong các tài liệu trên là thứ chữ như thế nào? Vì sao đến nay không còn dấu tích gì về nó nữa?

Vương Duy Trinh – Hiệp biện Đại học sỹ, Tổng đốc Thanh Hóa – trong cuốn Thanh Hóa quan phong viết năm 1903, đã giới thiệu một số chữ lạ mà ông sưu tập được, khẳng định đó là chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương, và đưa ra nhận xét: “Vì Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Trung Quốc”.

Giáo sư Hà Văn Tấn đã công bố công trình nghiên cứu “Về một nền văn tự trước Hán và khác Hán”, Giáo sư Lê Trọng Khánh thì khẳng định “Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa Đẩu thời tiền sử để ghi tiếng dân tộc mình”.

Giải mã bộ “chữ Thái (thổ tự)”

Hướng đi đầu tiên của thầy Xuyền là tìm kiếm dấu tích của chữ Việt cổ.

Năm này qua năm khác, nghe đâu có ký tự lạ lưu giữ qua các cổ vật, hang động, vách đá, thầy Xuyền bất chấp đường xa, không ngại tốn kém, lập tức tìm đến. Nhưng tất cả chỉ là những ký hiệu chưa giải mã được

Mươi năm gần đây, thầy Xuyền chuyển hướng đi mới – nghiên cứu những ký hiệu đã mang hình hài của ký tự, được phát hiện rải rác từ Hà Giang, qua Bắc Ninh, Hòa Bình, vào tới Thanh Nghệ Tĩnh…

Tập trung lên hướng Tây Bắc – vùng ổn định nhất của người Lạc Việt suốt nhiều nghìn năm – thầy Xuyền đã phát hiện ra suốt một vùng dọc theo triền sông Đà, nhân dân ta còn lưu giữ được nhiều văn bản mang trên mình loại ký tự mà mọi người vẫn nhầm là chữ Thái.

Trong những tài liệu ấy, thầy Xuyền đặc biệt chú ý đến tài liệu do Thượng thư Phạm Thận Duật, một nhà trí thức uyên bác (Tri châu Điện Biên những năm 1855-1856) công bố.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu về phong tục, tập quán, Phạm Thận Duật đã có một số trang ghi lại một loại ký tự mà ông cho là “chữ Thái (thổ tự)” (CTTT – chữ Thái chỉ của một vùng người Thái). Những trang ghi chép này không được chú ý vì nội dung của nó mang nhiều điều vô lý.

Sau một thời gian dài đi sâu vào sự “vô lý” ấy, thầy Xuyền đã phá bỏ lớp vỏ ngụy trang, dần dần giải mã được bộ ký tự này. Thầy Xuyền cũng khu biệt được bộ chữ mới được giải mã, từ đó rút ra kết luận: Bộ chữ này cũng không phải của hai dân tộc anh em Mường và Thái.

Do nhiều lý do, các dân tộc anh em đã sử dụng chung bộ ký tự này (có chỉnh sửa đi chút ít), đúng như nhận định của Vương Duy Trinh “Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy”!

Tiền thân của chữ Quốc Ngữ?!

Chữ Quốc ngữ xuất hiện ở nước ta từ năm 1651. Nhiều cuốn sách cổ được in từ buổi đầu chữ Quốc ngữ xuất hiện, đến nay hầu như không ai đọc được.

Khi đem bộ chữ Việt cổ đã được giải mã thử đọc một số cuốn sách cổ, như cuốn “Từ điển Việt Bồ La” của Alexandre de Rodes, hay cuốn “Sách sổ sang” của Philip Bỉnh (Giám mục người Việt, ở Thủ đô Bồ Đào Nha những năm 1790 – 1820), thầy giáo Xuyền đã rất thú vị khi dễ dàng đọc được những từ khó mà lâu nay nhiều người không đọc cũng không giải thích được.

Chính từ việc này, thầy Xuyền đã đưa ra một giả thuyết: Chữ Quốc ngữ có lẽ không phải là một công trình hoàn toàn mới của Alexandre de Rodes.

Nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ?!

Giả thuyết của thầy Xuyền không phải không có căn cứ. Bởi chữ Quốc ngữ và chữ Việt cổ do thầy Xuyền giải mã có cùng cấu trúc ghép vần tương tự nhau, chỉ khác nhau về hình dạng mà thôi!

Chính trong cuốn “Từ điển Việt Bồ La”, Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, nó đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo thầy Xuyền thì “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ!

Đinh Anh Tuấn – Tiền Phong

http://hodovietnam.vn

,

No comments:

Post a Comment