2012-04-11
Trong có một tuần mà tin xấu dồn dập trên khắp các mặt trận kinh tế của Việt Nam khiến người ta nêu câu hỏi về sách lược phát triển của xứ này.http://www.rfa.org/vietnamese/programs/EconomicForum/socio-politic-origin-eco-crisis-vh-04112012123037.html/04112012-ddkt-vh.mp3
Vũ Hoàng tìm hiểu sự thể qua phần trao đổi sau đây cùng chuyên gia Nguyễn Xuân Nghĩa, tư vấn kinh tế của đài Á châu Tự do.
Quản lý kém
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, những
tin tức dồn dập tuần qua về kinh tế Việt Nam khiến nhiều thính giả muốn
biết về nguyên nhân và hậu quả. Từ bên ngoài thì truyền thông quốc tế
nói đến sự sa sút của Việt Nam sau khi đạt một số thành tựu ngoạn mục về
tăng trưởng. Tiêu biểu là hai bài nhận định của tờ báo chuyên đề về
kinh tế và kinh doanh là The Economist của Anh và Forbes của Mỹ mà đài Á
châu Tự do đã có dịp giới thiệu hôm Chủ Nhật mùng tám.
Từ bên trong, ban Thanh tra Chính phủ báo cáo về những sai sót trong
các tập đoàn kinh tế nhà nước khiến công quỹ bị mất có thể đến một tỷ
rưỡi, nếu tính bằng đô la. Trong khi ấy, không khí chung là sự bải hoải
của các doanh nghiệp sản xuất, được thấy rõ nhất qua sự kiện là cả Ngân
hàng Thế giới lẫn Chính quyền Việt Nam đã nói đến mấy vạn doanh nghiệp
bị phá sản mà con số thật là bao nhiêu thì dường như chưa ai rõ.
Thưa ông, trong hoàn cảnh đó, người ta có thể nêu câu hỏi là vì sao
lại như vậy? Phải chăng vì Việt Nam cũng đang bị hiệu ứng suy trầm toàn
cầu khởi sự năm 2008 hay là vì lý do gì khác? Trong chương trình chuyên
đề tuần này, Diễn đàn Kinh tế xin yêu cầu ông trình bày cho một cái nhìn
toàn cảnh về nguyên nhân của những khó khăn dồn dập tại Việt Nam hiện
nay.
Nói chung thì hệ thống quản lý vĩ mô bị rối loạn và biện pháp bơm tiền cấp cứu cũng tựa bơm nước: nơi thì hạn hán, nơi lại bị úng thủy, sử dụng không đúng mục tiêu và gây thất thoát khổng lồ cho công quỹ.
Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết, tôi xin được trở lại khái niệm "nhân duyên" mà mình hay nhắc đến trên diễn đàn này.
Trước hết, nguyên nhân là loại động lực nội tại khiến một sự việc nào đó sẽ tất yếu xảy ra. Duyên là yếu tố thời cơ, hay điều kiện khách quan có thể là từ bên ngoài, khiến sự biến ấy lại xảy ra lúc này. Tôi xin lấy một thí dụ mong là dễ hiểu: một cơ thể mắc bệnh nội thương trầm trọng thì thế nào cũng có ngày bị quỵ. Đó là cái nhân. Khi thời tiết thay đổi chẳng hạn thì đấy là cái duyên làm căn bệnh dễ phát tác nhất. Vì vậy, bảo rằng vì thời tiết nóng lạnh mà bệnh nhân bị đau nặng đến độ thương vong thì không hẳn là sai mà chắc chắn là không đúng.
Trước hết, nguyên nhân là loại động lực nội tại khiến một sự việc nào đó sẽ tất yếu xảy ra. Duyên là yếu tố thời cơ, hay điều kiện khách quan có thể là từ bên ngoài, khiến sự biến ấy lại xảy ra lúc này. Tôi xin lấy một thí dụ mong là dễ hiểu: một cơ thể mắc bệnh nội thương trầm trọng thì thế nào cũng có ngày bị quỵ. Đó là cái nhân. Khi thời tiết thay đổi chẳng hạn thì đấy là cái duyên làm căn bệnh dễ phát tác nhất. Vì vậy, bảo rằng vì thời tiết nóng lạnh mà bệnh nhân bị đau nặng đến độ thương vong thì không hẳn là sai mà chắc chắn là không đúng.
Kinh tế Việt Nam có những nhược điểm tích lũy từ quá lâu và đấy là
cái nhân. Kinh tế toàn cầu bị suy trầm khiến số cầu sút giảm nên đòi hỏi
chính quyền phải chống đỡ và do những yếu kém nội tại bị khỏa lấp bên
dưới mà biện pháp chống đỡ càng dẫn tới nguy cơ khủng hoảng hiện nay, và
đó là cái duyên. Bây giờ, ta sẽ lần lượt mở ra cái mối nhân duyên đó.
Vũ Hoàng: Chúng tôi hiểu ra cái chuỗi lý luận của ông qua cách
trình bày. Khi tạp chí kinh tế The Economist nói về hoàn cảnh từ anh
hùng về tăng trưởng của Việt Nam mà nay rơi vào số không, hoặc khi tờ
Forbes viết là Việt Nam mất sự sáng láng đầy hấp dẫn cho giới đầu tư thì
phải chăng họ chỉ tổng hợp những điều mà nhiều nhà quan sát khác đã
thấy từ trước đó rồi?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng ta không quên rằng ngay giữa giai
đoạn còn lạc quan hồ hởi, ít ra là của chính quyền Việt Nam từ cuối năm
kia, thì nhiều công ty lượng cấp tín dụng đã đánh sụt mức tín nhiệm của
trái phiếu Việt Nam xuống hàng giấy lộn hay "junk bonds".
Chúng ta cũng khó quên là trước khi có chuyện phanh phui những sai
phạm của các tập đoàn kinh tế nhà nước khiến công quỹ bị thất thoát đến
cả tỷ rưỡi – mà con số này thật ra còn là thấp – thì ta đã thấy vụ khủng
hoảng của tập đoàn Vinashin với khoản nợ lên tới bốn tỷ đô la.
Cũng thế, từ năm ngoái diễn đàn này đã nhắc đến hiện tượng gọi là "chết lâm sàng" của các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam khi phải vay vốn kinh doanh với lãi suất từ 20 đến 22% chưa kể tiền chè lá trả dưới gầm bàn. Sau cùng, từ nhiều năm qua, ta cũng đã thấy và phân tích sự kiện gọi là "liều thuốc đổ bệnh" khi chính quyền cấp phát tín dụng bừa phứa để kích thích kinh tế rồi gây hậu quả lạm phát khiến nhà nước lật đật nâng lãi suất và xiết tín dụng khiến doanh nghiệp tư nhân không thể vay tiền và chết khát trong khi các đại gia chung quanh hệ thống doanh nghiệp nhà nước vẫn có tiền trút vào loại dự án vô giá trị, hoặc thổi tiền vào thị trường đầu cơ.
Cũng thế, từ năm ngoái diễn đàn này đã nhắc đến hiện tượng gọi là "chết lâm sàng" của các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam khi phải vay vốn kinh doanh với lãi suất từ 20 đến 22% chưa kể tiền chè lá trả dưới gầm bàn. Sau cùng, từ nhiều năm qua, ta cũng đã thấy và phân tích sự kiện gọi là "liều thuốc đổ bệnh" khi chính quyền cấp phát tín dụng bừa phứa để kích thích kinh tế rồi gây hậu quả lạm phát khiến nhà nước lật đật nâng lãi suất và xiết tín dụng khiến doanh nghiệp tư nhân không thể vay tiền và chết khát trong khi các đại gia chung quanh hệ thống doanh nghiệp nhà nước vẫn có tiền trút vào loại dự án vô giá trị, hoặc thổi tiền vào thị trường đầu cơ.
Nói chung thì hệ thống quản lý vĩ mô bị rối loạn và biện pháp bơm
tiền cấp cứu cũng tựa bơm nước: nơi thì vẫn bị hạn hán là doanh nghiệp
đang phá sản, nơi lại bị úng thủy là nạn sai phạm, sử dụng không đúng
mục tiêu và gây thất thoát khổng lồ cho công quỹ.
Tham nhũng cao
Vũ Hoàng: Khi ông nhắc lại hiện tượng này từ nhiều năm qua thì thính
giả có thể phần nào hình dung ra tương quan nhân quả trong cơ cấu mà
yếu tố thời cơ hay chu kỳ suy trầm chỉ là cái duyên khiến mọi sự cùng
phát tác lúc này. Bây giờ, suy ngược lên căn nguyên của vấn đề thì đâu
là nguyên nhân chính, hay cái nút thắt mà mình gỡ ra thì có thể ít nhiều
giải quyết được vấn đề?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi còn nhớ là ngay từ năm 2008, diễn đàn
này của chúng ta đã nói đến việc nhân cơ hội suy trầm toàn cầu mà tiến
hành cải cách từ cơ bản thì may ra sẽ thoát hiểm. Đấy là khuyến cáo lạc
quan vì còn tin vào thiện chí và khả năng ứng phó của giới hữu trách.
Kết cuộc thì ta chưa thấy thiện chí còn khả năng thì lại rất tệ, chưa
nói đến trở lực của các nhóm quyền lợi ở vào cái thế ngồi mát ăn bát
vàng và cố tình cưỡng chống cải cách và thậm chí trục lợi nhờ sự yếu kém
này.
Rốt cuộc thì căn nguyên sâu xa nhất của kinh tế Việt Nam chính là cái
gọi là "định hướng xã hội chủ nghĩa" với hậu quả là sự hiện hữu bất
công của khu vực kinh tế nhà nước vốn dĩ bất lực về quốc kế dân sinh vì
có năng suất đầu tư thấp mà tham nhũng cao. Cái định hướng tai hại ấy
mới giải thích vì sao mà từ các tổng công ty người ta còn lập ra 12 tập
đoàn kinh tế nhà nước là những trung tâm phúc lợi riêng của một thiểu
số.
Vũ Hoàng: Chúng tôi quả là có nhớ rằng diễn đàn này đã nhiều
lần nói đến yêu cầu cải cách từ cái đầu, tức là từ dư duy mang đầy quán
tính về sự ưu việt của mô hình phát triển. Và biện pháp đầu tiên là cải
cách doanh nghiệp, tức là tái cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước,
khu vực vẫn được coi là chủ đạo hay chủ lực của nền kinh tế quốc dân.
Nhưng một số quốc gia, nổi bật là Trung Quốc, đã từng tạo ra thành
tựu kinh tế khi xây dựng chiến lược phát triển dựa trên vai trò chủ động
của nhà nước và hệ thống quốc doanh. Song song, các quốc gia tiên tiến
đã trông cậy quá nhiều vào thị trường tự do thì lại khủng hoảng nặng từ
nhiều năm nay. Nếu như vậy, làm sao chứng minh hay thuyết phục người ta
về nhược điểm của chiến lược gọi là "định hướng xã hội chủ nghĩa"?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đấy là lý do mà năm năm qua chúng ta
thường xuyên nói đến và gần như nói ngược về trào lưu cải cách kinh tế
cho tự do hơn. Chỉ vì ta dễ nhìn vào hiện tượng biểu kiến mà không thấy
bản chất bất công và bất lực của "định hướng xã hội chủ nghĩa".
Trước hết, không ai minh xác nổi cái định hướng ấy là gì, kể cả giới
lãnh đạo Hà Nội. Một cách lý thuyết và lý tưởng, ta có thể nghĩ "định
hướng xã hội chủ nghĩa" hàm ý bênh vực, bảo vệ hoặc nâng đỡ đa số người
dân nghèo đói nhất xã hội hầu phần nào cân bằng lại cái thế mạnh của thị
trường và của thiểu số giàu có nhất. Sự thật xảy ra hoàn toàn trái
ngược về mặt xã hội: chính cái định hướng ấy lại khiến đa số người dân
bị bỏ rơi, thậm chí bị bóc lột, là tình trạng đang xảy ra tại cả Trung
Quốc lẫn Việt Nam, là nơi có tỷ lệ bất công xã hội cao nhất trong các
nước đang phát triển.
Về mặt kinh tế, cái gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
hoặc của Trung Quốc chỉ là nhân danh người dân vô quyền trong xã hội mà
khai thác quy luật thị trường có chọn lọc theo cái hướng phát triển hệ
thống tư bản nhà nước. Định hướng ấy mặc nhiên củng cố thế lực của một
thiểu số được bảo vệ về chính trị và nâng đỡ về kinh doanh nên nó vừa
bất công vừa bất lực.
Nhiều nước Đông Á từng áp dụng chiến lược này khi khởi phát, cũng với
thành tích ban đầu rất cao và sau đó bị khủng hoảng, như Nhật Bản năm
1990 hay các nước kia vào năm 1997. Nhưng dù sao mấy xứ Đông Á đó vẫn
sáng suốt về xã hội khi họ không để mở rộng khoảng cách giàu nghèo trong
tiến trình phát triển và họ vẫn có dân chủ nên khủng hoảng kinh tế
không dẫn tới sự sụp đổ của cả chế độ và lãnh đạo mới đã có thể cải sửa
với kết quả khả quan hơn.
Vũ Hoàng: Nói về chuyện cải sửa, thưa ông, hình như là lãnh
đạo Việt Nam từ trong đảng ra tới nhà nước cũng đã nói đến việc tái cấu
trúc kinh tế và dư luận các chuyên gia đều ngày càng nêu ra nhiều ký
kiến thẳng thắn hơn về yêu cầu cải tổ. Ông nghĩ sao về hy vọng đó cho
Việt Nam.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết, từ dưới lên thì ta thấy rằng dân
chúng ngày càng bày tỏ sự thất vọng một cách công khai thậm chí dữ dội
hơn. Tôi thấy rằng đây là cần thiết vì nếu người dân cứ cúi đầu mãi thì
họ tiếp tục là bầy cừu bị cạo lông, là đám sinh vật bị bóc lột mà không
dám cãi.
Thứ hai, các chuyên gia ở trong nước cũng thấy rõ những nguyên nhân
và hậu quả của tệ nạn ngày nay. Khi thấy người dân thấp cổ bé miệng mà
còn dám tổ chức biểu tình khiếu kiện và công nhân còn đình công tập thể
thì họ cũng có can đảm hơn mà nói ra một phần của sự thật. Nhưng họ khó
nói nhiều hơn và khó làm được gì trong tiến trình quyết định nên ta cũng
thông cảm.
Ở cấp cao nhất thì ngoài lời kêu gọi chung chung thì vẫn là ngôn ngữ
kiểu lưỡi gỗ, sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương hoặc hội nghị về
chỉnh đốn đảng. Tôi nghĩ là lãnh đạo Hà Nội chưa đổi mới tư duy nên
không dám cải cách từ cái đầu xuống. Nhưng tai hại hơn thế còn có hiện
tượng khác. Đó là nhân cơ hội khó khăn nguy ngập mà các phe nhóm về
quyền lợi đã tranh giành ảnh hưởng và triệt hạ lẫn nhau, rồi dùng chuyện
diệt trừ tham nhũng làm lý cớ.
Ví dụ, việc cải cách doanh nghiệp, cụ thể là cổ phần hóa để tư nhân
hoá hệ thống doanh nghiệp nhà nước, được đề xướng từ hai chục năm trước
mà chẳng có kết quả. Thậm chí còn giật lùi là sự tăng cường các tổng
công ty nhà nước thành tập đoàn kinh tế chiến lược trong tay quản lý của
Thủ tướng kể từ năm 2006. Nếu gọi đó là "thí điểm", hay điểm thí
nghiệm, thì sáu năm sau là ngày nay, người ta tất nhiên đã thấy kết quả
tai hại và phải sửa sai chứ?
Khó thay đổi
Vũ Hoàng: Ông nghĩ rằng vì sao mà người ta khó thể sửa sai?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Kinh tế học có nói đến một chế độ "kinh tế
quả đầu", một từ Hán-Việt hơi khó hiểu. Thật ra, đó là chế độ hay thị
trường mà một thiểu số nắm giữ cái thế độc quyền thực tế.
Nhóm thiểu số
này có cơ sở là các tập đoàn kinh tế nhà nước, chung quanh là một chùm
doanh nghiệp của thân tộc hoặc tay chân thân tín ngụy danh là tư doanh
trong sản xuất hay ngân hàng nhưng thực tế là mạng lưới quyền lợi cấu
kết.
Ở trên, các nhóm thiểu số này có thế lực từ trên Bộ Chính trị xuống.
Họ có thể tranh đoạt quyền lợi với nhau với lý cớ - tức là lý do không
thật - như điều tra về tham nhũng hoặc sai phạm của phe nhóm kia và đưa
ra vài biện pháp kỷ luật để nhất thời làm nguôi ngoai sự bất mãn của dân
chúng hoặc đưa người lên thay. Nhưng về cơ bản thì không ai muốn thay
đổi cả hệ thống vì ai ai cũng có quyền lợi hay thân tộc nằm trong hệ
thống đó.
Kết quả là người ta gây ra nhiễu âm ồn ào mà sau cùng chẳng
sửa sai nổi những chứng tật bên trong vì chính là chứng tật đó mới đưa
họ lên vị trí lãnh đạo.
Vũ Hoàng: Hình như là ông có một kết luận khá bi quan về triển vọng cải cách của Việt Nam.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ đến một sự thể khách quan chứ
không bi quan hay lạc quan về tương lai mà có lẽ rất nhiều người khác kể
cả ở trong đảng Cộng sản Việt Nam cũng thấy ra.
Nhưng về cơ bản thì không ai muốn thay đổi cả hệ thống vì ai ai cũng có quyền lợi hay thân tộc nằm trong hệ thống đó.
Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Đó là nếu đảng và tay chân trong bộ máy nhà nước và hệ thống kinh tế
mà không sửa đổi thì sẽ sụp đổ. Về ý thức hệ thì mọi người đều thấy ra
từ 20 năm trước khi hệ thống Xô viết tự tan rã trên sự ruỗng nát nội tại
của nó. Về thực tế thì giải pháp cứu vãn kiểu Bắc Kinh với vai trò tư
bản nhà nước cũng đi hết sự vận hành với vụ phá sản của tư doanh Ôn
Châu, vụ khủng hoảng chính trị dưới cơ sở tại Ô Khảm và sự sụp đổ của
mẫu mực Trùng Khánh vừa qua.
Không ai muốn Việt Nam bị loạn bây giờ,
nhưng lãnh đạo Hà Nội đang tích lũy mầm loạn mà vẫn cố bám lấy con
thuyền sắp chìm và còn đòi giành chỗ tốt trong sự mục nát chung. Bi hay
lạc quan vì vậy còn tùy vào tầm nhìn gần hay xa....
Vũ Hoàng: Đài Á châu Tự do xin cảm tạ ông Nguyễn Xuân Nghĩa về cuộc trao đổi này.
No comments:
Post a Comment