Chuyện này xảy ra đã gần 37 năm. Từ đầu năm nay tôi nhận được 6 điện thư từ trong nước, từCanadavà Cộng hòa Liên bang Đức hỏi về chuyện này.
Đây là chuyện rất cũ, nhưng do chế độ độc đảng luôn duy trì nhiều mảng tối, không công khai minh bạch, nên có nhiều vấn đề lịch sử cần làm rõ.
Trưa 30-4-1975, trong phòng lớn của Dinh
Độc lập, sau khi tôi gặp và hỏi chuyện tướng Dương Văn Minh và ông Vũ
Văn Mẫu, không khí dần dần bình thản. Ông Nguyễn Văn Hảo ghé tới nói nhỏ
với giọng miền Nam, «Thưa tôi là Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng đặc
trách về kinh tế – tài chính, có chuyện cần trình bày riêng với các
ông».
Tôi cùng ông Hảo đến ngồi bên chiếc bàn nhỏ gần cửa sổ. Vừa ngồi
xuống, ông Hảo nói ngay: «Chúng tôi vừa trao đổi với nhau, muốn nhờ ông
báo ra ngoài đó là bọn này đã giữ lại hơn 16 tấn vàng không để họ mang
đi, hiện để trong ngân khố, mong ngoài đó cho người vô nhận».
Tôi hỏi
lại: «Ông nói sao? 16 tấn vàng trong ngân khố? Có thiệt không?». Tôi ghi
vội vài chữ trên sổ tay: Ng. v Hảo, 16 tấn, ngân khố…, và nghe ông Hảo
trả lời: «Thiệt chớ, bọn này chịu hoàn toàn trách nhiệm mà». Ông còn nói
thêm: «Nếu các ông gửi (ông dùng tiếng Pháp «placer») ở các ngân hàng
quốc tế lớn thì sau sẽ có thể thành 18 tấn, 20 tấn. Nếu cần, bọn này sẽ
giúp».
Tối hôm đó tôi đi trên chiếc xe jeep của
đơn vị thông tin Quân đoàn II khi được biết họ sắp vào sân bay Tân Sơn
Nhất để bắt liên lạc với phái đoàn ta trong Ban Liên hợp Quân sự bốn bên
(về sau là Ban LHQS hai bên) lập ra từ sau Hiệp định Paris tháng
1-1973. Tôi đã từng ở đó 60 ngày trong một khu gọi là trại Davis. Thật
là may mắn không ngờ. Tôi hướng dẫn Thiếu úy Hà lái xe vì tôi đã hàng
chục lần đi con đường này hồi 1973, và đã nghiên cứu rất kỹ bản đồ Sài
Gòn mấy ngày đó. Tôi vào trại Davis như về nhà. Anh Võ Đông Giang, anh
Hoàng Anh Tuấn vẫn ở đó. Chào hỏi xong tôi vội xuống trạm thông tin, thì
vẫn là tổ thông tin hơn 2 năm trước.
Dạo ấy anh em vẫn đánh bài viết
của tôi cho báo Quân đội Nhân dân. Chiều nay sau khi viết bài báo xong,
tôi rất băn khoăn vì các nhà báo Pháp, Ý, Đức đều cho tôi biết là bưu
điện Sài Gòn đóng cửa 2 hôm nay rồi. Điện thoại viễn liên bị cắt đứt. Họ
đang bế tắc không sao gửi bài đi được. Tôi cũng sốt ruột không kém. Vì
gửi bài báo ngay đêm nay để sáng mai bài báo được in trên báo QĐND là
một yêu cầu cấp bách. Thượng sỹ thông tin trẻ măng người Thái Bình tên
là Hải đánh bài báo của tôi bằng tín hiệu Morse, tè tè tích tích. Bài
báo gửi cho Thiếu tướng Lê Quang Đạo, phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị,
để chuyển cho báo QĐND. Ngay sau bài báo là mấy dòng chữ «Gửi riêng Thủ
trưởng Tổng Cục Chính trị – Tuyệt mật. Hôm nay 30-4-1975 Phó thủ tướng
Nguyễn Văn Hảo đặc trách kinh tế – tài chính báo tin cho tôi là đã giữ
lại trong ngân khố hơn 16 tấn vàng, mong ta cho người vào nhận. Bùi
Tín».
Sau đó tôi mới thong thả gặp gỡ các anh
em ta trong trại Davis, cùng ăn một nồi chào gà tuyệt trần sau một ngày
cực kỳ căng thẳng, mệt nhọc.
Bài báo đăng trên báo QĐND sáng ngày
1-5-1975 là bài báo duy nhất gửỉ được từ Sài Gòn vì hồi đó chưa có điện
thoại cầm tay, chưa có máy điện toán xách tay như hiện nay. Máy fax rất
nặng nề.
Do bài báo được chuyển bằng tín hiệu Morse tè tè tích tích, nên
có 2 chữ ghi sai. Đó là khi tôi nói về thực đơn của Tổng thống Thiệu
ngày 30-4 được in trên giấy đặt trên bàn làm việc của ông có 2 món là
«cá thu kho mía» và «gân bò hầm sâm», một món của cao lâu Tàu được gọi
là «ngầu pín», đã bị ghi sai thành cá thu kho giá và gan bò hầm sâm.
Nhiều người thắc mắc cá thu kho giá và gan bò hầm sâm thì có gì ngon và
bổ. Người đánh và nhận Morse đã nhầm chữ «g» (tè-tè-tích) thành chữ «m»
(tè-tè) và chữ «â» thành «a».
Ít lâu sau đó, tôi đọc trên cuốn A Decent
Interval (Khoảng cách vừa phải) của Frank Snepp, một cán bộ CIA ở Sài
Gòn trước đó, nói rằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mang đi hàng chục
tấn tài sản quý sang Đài Loan, nơi có anh ông là đại sứ Nguyễn Văn Kiểu,
để đưa sang Hoa Kỳ sau đó.
Tất cả các báo chính thức ở Hà Nội hồi đó
đều trích đăng cuốn sách của Frank Snepp, đoạn nói về việc ông Thiệu
chở tài sản quốc gia trong đó có hơn 10 tấn vàng trong ngân khố ra khỏi
nước, và ai cũng đinh ninh là chuyện này là có thật.
Ở hải ngoại nhiều bài viết cho đến nay
vẫn đinh ninh chuyện ông Thiệu mang đi 16 tấn vàng là có thật, lên án
ông rất nặng nề là trong tình hình cực kỳ khẩn trương ông đã chỉ lo vun
vén cho cá nhân, lo chiếm đoạt tài sản công thành của riêng một cách tồi
tệ.
Về phía chính quyền độc đảng ở trong
nước, họ vẫn cố tình duy trì một tình hình ỡm ờ úp úp mở mở, không rõ
ràng minh bạch về hơn 16 tấn vàng trong ngân khố Sài Gòn hồi ấy, với ý
định không sạch sẽ là để cho mọi người hiểu lầm về chuyện này.
Năm 1994, khi tôi đã ở Paris, một bạn
người Việt làm việc cơ quan nghiên cứu và lưu trữ về chiến tranh Việt
Nam ở Lubbock, Tiều bangTexas, Hoa Kỳ, cho tôi địa chỉ điện thoại của
ông Nguyễn Văn Hảo. Tôi gọi ngay cho ông và từ đó có dịp nói chuyện về
ngày 30-4-1975. Ông cho biết ông đang ở Port-au–Prince, thủ đô nước cộng
hòa Haiti, trong vùng Antilles – Caribbean, làm cố vấn kinh tế cho
chính phủ Haiti. Ông cũng được biết đầu tháng 5-1975 ngoài Hà Nội đã cho
riêng 1 chuyến chuyên cơ vào tiếp nhận hơn 16 tấn vàng và chở ra Hà
Nội.
Đầu tháng 5-1975 tôi cũng được tướng Đào
Đình Luyện, chỉ huy không quân, cho biết nguyên một chuyến chuyên cơ IL
18 đã chở số vàng thu được từ Sài Gòn ra Hà Nội.
Ông Hảo kể lại chuyện này: «Hồi đó, ông
Vũ Văn Mẫu đề xuất với tướng Dương Văn Minh rồi giao cho tôi (là ông
Hảo) mật báo cho đại diện của các ông, sau khi được báo là một sỹ quan
cao cấp vào gặp bọn này».
Ông nói thêm: «Các ổng muốn các ông hiểu rõ là
bọn này đã cố giữ lại không cho họ mang đi để giữ lại tài sản quốc gia
đặng giao lại cho quý ông». Ông còn cười vui: «Lẽ ra quý ông có một lời
tiếp nhận và đánh giá công khai chuyện này cho đồng bào cả nước biết thì
bọn này mới thật hài lòng».
Lần sau gặp ông trên điện thoại, ông cho
tôi biết thêm là «công bằng mà nói, đã có nhiều dự án chuyển hết số vàng
trong ngân khố ra nước ngoài, qua các ngân hàng quốc tế, nhưng các cuộc
thương lượng chưa ngả ngũ thì quý ông đã vô rồi. Anh em phụ trách Ngân
khố quốc gia cũng tỏ rõ thái độ không để cho họ mang đi. Lẽ ra các ông
nên có lời khen cho anh em đó vui lòng».
Trong các phiên họp của chính phủ, của
quốc hội sau 30-4-1975, không có một chi tiết nào về hơn 16 tấn vàng
được chính quyền miền Nam chính thức giao lại. Nó có thật sự nhập kho
Nhà Nước đầy đủ, và được dùng vào những việc gì?
Không ai biết. Đại biểu
Quốc hội không ai hỏi, vì 90 % đại biểu là đảng viên, số ngoài đảng còn
bảo hoàng hơn nhà vua.
Tháng 4-2010, Bộ Quốc phòng Hà Nội có
cuộc họp «viết lại một cách chính thức diễn biến ngày 30-4-1975 ở Dinh
Độc lập», họ không nhắc đến tên tôi, coi như nhà báo Bùi Tín không hề có
mặt ở Sài Gòn ngày hôm đó, cũng không hề nhắc đến chuyện hơn 16 tấn
vàng, một chi tiết không nhỏ, nhưng họ không muốn nhắc đến nữa.
Năm 1987, khi có dịp gặp ông Trường Chinh
ở Đà Lạt, tôi kể lại chuyện này, ông cho biết : « Tôi có biết chuyện
này, nhưng hết sạch cả rồi, trong mấy năm khó khăn, cấu véo hết tấn này
đến tấn khác, mua lương thực, nguyên liệu, nay còn gì nữa đâu!». Đây là
câu duy nhất tôi nghe được về số phận của hơn 16 tấn vàng năm 1975, từ
miệng một nhà lãnh đạo.
Các phiên họp Quốc hồi từ 1975 đến nay,
không ai biết, cũng không ai hỏi , chiến lợi phẩm thu được ở miền Nam,
số tiền hồi ấy bộ Công an có chủ trương bán bãi, bán tầu thuyền, thu
vàng cho mỗi người lên tàu di tản – từ 3 lạng đến 6 lạng, có khi lên đến
12 lạng vàng mỗi đầu người – tất cả là bao nhiêu? Và tiền thu của người
Hoa bị xua đuổi từ Cẩm Phả, Hon Gai, Hải Phòng vào đến Vũng Tàu, Chợ
Lớn, Cần Thơ…là bao nhiêu?
Lại còn tiền của thu được qua các chiến dịch
tiêu diệt công thương nghiệp tư nhân, cái gọi là diệt gian thương trên
toàn miền Nam hồi đó, tiêu tan đi đâu cả rồi?
Trong Quốc hội có Ban Kinh
tế – Tài chính, nhưng có ai được biết gì đâu, có ai dám hỏi gì đâu, cả
một khối mờ ám cỡ quốc gia, do đồng nhất đảng với nhà nước, đảng với
quốc gia, đảng với nhân dân, tuy ba mà một.
Lại còn trong chiến dịch gọi là giải
phóng Campuchia khỏi diệt chủng của Khơ-me Đỏ cuối năm 1978- đầu năm
1979, đơn vị đặc công và một sư đoàn của Quân đoàn IV được lệnh chiếm
các cơ sở trong thủ đô Pnom Penh, đặc biệt là khu hoàng cung, tiền của,
kho tàng, đồ cổ lớn nhỏ đã được thu về bao nhiêu? Mang về nước ta bao
nhiêu? Ờ đâu, có biên bản, thống kê gì không? Tôi được biết phần lớn là
giao cho Ban Tài chính – Quản trị trung ương đảng, một cơ quan kinh tế –
tài chính – thương nghiệp xuất nhập khẩu – sản xuất kinh doanh riêng
của đảng, mà biên chế còn lớn hơn cả bộ Công thương và bộ Kế hoạch – Đầu
tư cộng lại.
Chế độ hiện tại quan tâm đến tiền bạc,
ngoại tệ, ngân khố, ngân hàng, hơn là cái gốc của nền kinh tế là sản
xuất ra của cải với kỹ thuật cao, giá thấp . Họ quên chức năng cơ bản
của nhà nước là phân phối, điều tiết phân phối lại thành quả phát triển
cho toàn xã hội cùng hưởng.
Các bộ của chính phủ coi rất nhẹ việc
quản lý về hành chính, chỉ chăm chú đến sân sau là các công ty kinh
doanh để chia chác bổng lộc, mặc cho các chỉ thị thu rất hẹp lĩnh vực
này.
Xin quan sát kỹ để thấy rằng ai dính đến
tài chính, ngân hàng, ngân sách đều được thăng quan tiến chức nhanh
nhất;
thủ tướng hiện nay từng là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước;
chủ tịch
Quốc hội hiện nay trưởng thành từ Cục trưởng Cục Ngân sách, rồi thứ
trưởng tài chính, rồi bộ trưởng tài chính, rồi phó thủ tướng thường
trực. Một phó thủ tướng hiện nay cũng từng là thứ trưởng rồi bộ trưởng
bộ tài chính. Nguyên thống đốc ngân hàng Trần Đức Thúy cùng cậu con trai
Trần Đức Minh và cộng tác viên thân cận là đại tá công an Lương Ngọc
Anh đều là những nhân vật con cưng của chế độ, những công thần hàng đầu
trong việc ngang nhiên phân phối lại tiền của của nhân dân đổ vào ngân
sách riêng của đảng. (Các bạn có thể đọc thêm bài báo «Nạn chảy máu tài
nguyên quốc gia» trên VOA ngày 17-8-2011).
Lúc này giới cầm quyền trong nước cần nhớ
lại lời khuyên tâm huyết của ông Lý Quang Diệu mươi năm về trước là:
«Khi sẽ có nhiều khoản tiền đầu tư lớn từ nước ngoài chảy vào, hãy giữ
gìn cẩn thận, không để cho đồng tiền chỉ huy, ngự trị, làm chủ lương tâm
viên chức, hãy rất cảnh giác với đồng tiền bẩn, đồng tiền phi pháp, nó
sẽ phá hoại công cuộc phát triển».
Cũng chính Cụ Lý – như một số người
trong nước thân mật gọi – căn dặn cách phòng chống tham nhũng có hiệu
quả là: luật pháp, ngành tư pháp, tòa án phải rất nghiêm (để không ai
dám tham vì sợ tù ), lương viên chức tạm đủ sống (không cần tham nhũng),
tuyên truyền giáo dục nêu gương các viên chức trong sạch sống thanh
bạch, chỉ ra kẻ tham là kẻ cắp, kẻ cướp xấu xa ô nhục tàn phá rường cột
của quốc gia (không ai nỡ tham nhũng vì sợ nhục).
Có thể nói tiền nong, vàng bạc, của cải
trong chế độ độc đảng đã gây nên tham nhũng, bất công kinh khủng chưa
từng có trong xã hội nước ta, tiền của vàng bạc phi pháp đã tha hóa giới
cầm quyền ở mọi cấp, tàn phá đảng cộng sản Việt Nam từ gốc lên ngọn.
Hiện là thời kỳ đảng viên quan chức lao
lên trước đi tiên phong để trở thành đại gia, đại điền chủ, đại trọc
phú, đại tư bản đỏ, bỏ mặc nhân dân của mình nghèo đói ở phía sau,
đến
nỗi nhà Mác-xít Lữ Phương phải la trời rằng đảng cộng sản đã đi đầu
trong xây dựng chủ nghĩa tư bản man rợ. Đó là thời kỳ các quan chức vứt
hàng ngàn tỷ này đến hàng nghìn tỷ khác qua cửa sổ, chìm nghỉm dưới đáy
biển, để mặc cho hệ thống y tế và giáo dục tàn tạ, bệ rạc.
Thời đại kim tiền của các nhà cầm quyền
tỷ phú Marcos, Suharto, Park Chung Hy, Ceausescu, Ben Ali, Ghadafi,
Mubarak…đã kết thúc bi thảm. Gương tày liếp cho những bầy sâu chói mắt
vì ánh vàng.
Bùi Tín
12-04-2012
No comments:
Post a Comment