|
|
Nữ Quân Nhân VNCH 1971
NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH THỜI LỬA BINH
Trong cuộc chiến
tranh bảo quốc chống ngăn cơn sóng đỏ của cộng sản quốc tế với đạo
quân tay sai tiền kích của chúng là binh đội cộng sản Bắc Việt và Việt
cộng miền Nam, khuôn mặt của những người vợ lính dường như đã rất mờ
nhạt đằng sau chất muối trắng đẫm đầy trên lưng áo của những người
lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng chiến tranh càng nặng độ thì
hình ảnh những người chị vô danh ấy đã dần hiện rõ trong một ánh sáng
diệu kỳ, mà chúng ta chỉ có thể cúi người thật sâu xuống để tôn vinh
và ngợi ca. Ðó là những người lính không có vũ khí, không số quân,
không tiền lương, không cả lương thực hành quân, nhưng là những người
lính tỏa hào quang chói sáng nhất trong những hoàn cảnh nghiệt ngã thắt
ngặt nhất, mà đã góp phần đem chiến thắng quyết định trên chiến
trường.
Ðó là NHỮNG
NGƯỜI VỢ LÍNH, những người chị cao cả mà đã cùng chồng dấn mình trong
cơn bão lửa của chiến tranh, cùng chia sẻ cái chết, có khi các chị hy
sinh trước cả các anh. Những cái chết anh dũng trong âm thầm đó nào ai
biết được. Không có Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Ðỏ phủ trên chiếc quan tài
được ghép thành từ những mảnh ván đơn sơ, không có chiếc huy chương
Anh Dũng Bội Tinh Với Nhành Dương Liễu, không cả tiếng kèn truy điệu
ai oán.
Những người lính đóng đồn cùng vợ con của các anh cùng sống chui rúc
trong những cái hầm tối tăm ngột ngạt, dưới những những cái hố nhỏ ngập
đầy nước. Những người lính nghèo nàn, rách rưới và tội nghiệp co ro
ôm súng gác giặc và đánh giặc trong cái lạnh xé thịt của đêm. Ăn uống
thì đạm bạc đến không có gì đạm bạc hơn được nữa. Một cái nồi cơm méo
mó, với vài con cá nhỏ kho trong chất nước mắm hạng bét mặn chát những
muối, một dĩa rau muống ruộng hay rau đắng xơ xác, mà có thể tìm thấy
mọc đầy khắp những vũng nước đọng trên những cánh dồng lầy.
Cả gia đình người lính Ðịa Phương Quân hay Nghĩa Quân quây quần chung
quanh mâm cơm đơn sơ đó chấp nhận sự thua thiệt của mình. Không than
thở, không ta thán và vui lòng với niềm hạnh phúc mong manh của mình.
Một năm 365 ngày, mười năm, hai mươi năm, cho đến ngày cuối cùng của
cuộc chiến, hơn bảy ngàn đêm những người chị ấy chưa từng bao giờ biết
ngủ yên giấc là gì. Chị thao thức đến nửa khuya, lắng nghe tiếng đại
bác vọng ì ầm về thành phố từ phía mặt trận có anh ở đó, chị thổn thức
nguyện cầu cho anh được bình yên, để anh có một ngày được về với chị
và con, dù chỉ là những khoảnh khắc về phép thật quá hiếm hoi. Hay nếu
chị cùng chồng trấn thủ lưu đồn, anh chiến đấu cơ cực như thế nào,
anh ăn ngủ chập chờn ra sao, thì chị cũng cơ cực và chập chờn ngần ấy.
CHỊ PHẠM THỊ THÀNG, NỮ ANH THƯ ÐẤT GÒ CÔNG
Chị
Thàng đã chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con
vào lòng, chị Thàng bình tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào vào,
chị rút chốt.
Người vợ lính ở tiền đồn cáng đáng cùng một lúc hai công việc, mà công
việc nào cũng biểu hiện hình ảnh và đức tính cao quí của người phụ nữ
Việt Nam. Thứ nhất, đức tính đảm đang tận tụy của người vợ, người đàn
bà Việt Nam quán xuyến chuyện gia đình, trông nom dạy dỗ con cái và
nấu nướng những bữa ăn.
Thứ hai, khi quân giặc đã thấy dẫy đầy ngoài những vòng rào kẽm gai,
thì những người nữ chiến sĩ chưa từng một ngày được huấn luyện ở quân
trường ấy đã chiến đấu như bất cứ người lính chuyên nghiệp nào. Chị
cũng biết dùng máy truyền tin gọi Pháo Binh, chị biết sử dụng thành
thạo mọi loại súng trong đồn có, chị ném lựu đạn ác liệt và chính xác,
tấm thân nhỏ bé của chị oằn nặng dưới những thùng đạn tiếp tế. Và chị
cũng sẵn sàng nằm gói thân thiên thu trong chiếc poncho, để tên chị
vĩnh viễn đi vào lịch sử. Chúng ta có nhiều người chị như vậy lắm. Ở
ngay tại đồng Giồng Ðình này thì ít nhất cũng có những chị Phạm Thị
Thàng và Trần Thị Tâm.
Ðêm 2.10.1965, với
âm mưu làm xáo trộn hệ thống tiếp viện của những đơn vị diện địa trong
khu vực Tiền Giang để dễ dàng thanh toán mục tiêu chính nào đó, chỉ
trong một đêm Việt cộng đã tổ chức tấn công 11 vị trí của quân ta với
quân số thật lớn. Ðồn Giồng Ðình thuộc tỉnh Gò Công cũng bị áp lực rất
nặng của quân địch khi hứng chịu cuộc cường kích của 300 lính cộng.
Ðây là một lực lượng chính qui Việt cộng với hỏa lực rất mạnh, chúng
quyết tâm hủy diệt đồn Giồng Ðình nhỏ bé, mà chỉ có vỏn vẹn một Trung
Ðội Nghĩa Quân 24 tay súng trấn giữ. Là những con ác quỷ hung tợn và
thâm độc, lực lượng cộng quân đã bố trí ở hướng có nhiều nhà dân chúng,
vừa làm bia đỡ đạn cho chúng, vừa ngoác miệng tuyên truyền gây căm
thù nếu quân ta bắn trả. Người dân, nhất là những ông bà lão già, đàn
bà và trẻ con luôn luôn là những cái bia sống đỡ đạn cho bọn giặc hèn
nhát gọi là những người “giải phóng”. Với quân số ấy, vũ khí hùng hậu
ấy mà chúng cũng ngán ngại 24 chiến sĩ Nghĩa Quân Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa đến nỗi phải cậy nhờ đến máu thịt của đồng bào để có cơ may
thủ thắng, thì còn từ ngữ nào, hình dung từ tồi tệ nhất nào để diễn tả
bộ mặt cùng hung cực ác rất đốn mạt của cộng sản nữa không.
Ðúng 2 giờ đêm, quân cộng dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Thượng Úy
Sáu Bích, đã mở cuộc tấn công từ hai mặt đánh vào Giồng Ðình, với sự
tin tưởng điên rồ, rằng chúng sẽ thanh toán cái tiền đồn nhỏ xíu này
trong một thời gian ngắn. Chiến thắng dường như là chắc chắn, vì với
quân số mười lần hơn, mười đè một, dẫu chúng có thí chín tên thì cũng
có thể hạ gục được một chiến sĩ Nghĩa Quân Giồng Ðình.
Trên lý thuyết, thì giả thiết đó dường như đúng. Nhưng trên trận địa,
người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa luôn luôn thể hiện những chuyện
phi thường, mà rất hằng hiện hữu trên bất kỳ chiến trường nào, quả
thật cộng quân đã chọn lầm mục tiêu. Sau ba đợt tấn công hung bạo,
tưởng gạch đá cũng phải nát thành tro, đã chiếm được 2 trong số 3 lô
cốt trong đồn, cộng quân vẫn phải rút trở ra. Cuộc tấn công lần thứ tư
được hối hả tổ chức và thực hiện, với quyết tâm san bằng Giồng Ðình.
Nhưng liệu 24 chiến sĩ Nghĩa Quân có cho phép điều đó không. Câu trả
lời là không, không chỉ đến từ ý chí hừng hực tử thủ của các anh, mà
còn là từ đôi bàn tay yếu mềm của những người vợ lính đang sống cùng
với chồng con của các chị trong đồn. Phải, cuộc chiến thắng cuối cùng
của Nghĩa Quân đồn Giồng Ðình sẽ không thể thực hiện được, nếu không
có sự góp sức chiến đấu của những người chị này. Giặc đến nhà đàn bà
cũng đánh. Không phải chỉ những người chị dũng cảm ấy không thôi, mà
cả trẻ con cũng đánh.
Ðồn Giồng Ðình nằm ở một vùng thôn ấp hẻo lánh trong tỉnh Gò Công, do
một Trung Ðội Nghĩa Quân trấn giữ, với thành phần chỉ huy gồm có anh
Nguyễn Văn Thi, Ðồn Trưởng, anh Lê Văn Hùng, Ðồn Phó và anh Lê Văn Mẫn,
âm thoại viên. Trấn thủ một vị trí hung hiểm như vậy, không chỉ có 24
tay súng mà đã đủ, nên tất cả những người vợ lính trong đồn đều đã
được chồng huấn luyện sử dụng thành thạo những loại máy móc truyền tin
và vũ khí. Như vậy số tay súng đã được nhân lên gấp đôi.
Trong nhiều trường hợp, đến những giây phút tử sinh tuyệt vọng nhất,
những em bé cũng tham chiến, khi các em gan dạ bò dưới lưới đạn của
giặc để đem tiếp tế đến cho cha và mẹ. Không ai buộc những người vợ
lính, con lính cầm súng đánh địch. Nhưng chính những người vợ lính, con
lính ấy làm sao có thể ẩn náu tìm cái sống trong khi chồng và cha của
họ sắp ngã gục ngoài chiến hào.
Khi chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch tạm rút để tái tổ chức tấn
công, thì tình trạng bên trong đồn Giồng Ðình đã khá là bi đát. Ðã có
đến 16 chiến sĩ Nghĩa Quân bị thương, chỉ còn 8 Nghĩa Quân còn chiến
đấu được. Âm thoại viên Lê Văn Mẫn bị thương ở đầu trong lúc anh đang
cố gắng gọi máy về Tiểu Khu.
Anh Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị Tâm, vợ anh
Mẫn vội đặt con bên cạnh anh và chộp lấy ống liên hợp. Liên lạc được
tiếp nối, chị Tâm nghiễm nhiên trở thành một âm thoại viên, và là cứu
tinh của đồn Giồng Ðình. Ở một góc đồn, anh Lê Văn Hùng và chị Phạm Thị
Thàng, vợ anh, và hai đứa con nhỏ đang phải đối đầu với một lực lượng
quá đông của địch.
Nhìn ra ngoài hàng rào kẽm gai, giặc đã đã tràn vào đen ngòm như những
con quái vật hung hãn. Anh Hùng chỉ còn trong tay cây tiểu liên
Thompson và 16 trái lựu đạn, chị Thàng có một khẩu Carbine. Thật tội
nghiệp cho hai đứa nhỏ, sức ép của bộc phá và súng SKZ của Việt cộng
bắn vào quá gần, các em không còn khóc được nữa mà đã nằm bất động dưới
chân hai vợ chồng anh Hùng. Chị Thàng thì thào:
-
Chúng đang phá lô cốt chánh, để em bắn yểm trợ anh bò về giữ. Lô cốt
mất là đồn mình mất, em nằm tại đây giữ mấy đứa nhỏ, nếu chúng tràn
vào thì... thì... em ném lựu đạn ra, có thể cầm cự đến sáng được.
Anh Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nhìn vợ con, rồi nhìn về phía lô cốt.
Tiếng súng từ lô cốt cuối cùng đã yếu ớt lắm, có lẽ mấy Nghĩa Quân cố
thủ ở đó đã kiệt quệ quá rồi. Số phận của anh Thi Ðồn Trưởng thế nào.
Anh Hùng lắc đầu không dám nghĩ đến chuyện xấu nhất đã xảy ra cho
đồng đội. Nhưng nếu Việt cộng chiếm được lô cốt ấy, thì coi như đánh
dấu chấm hết cuộc kháng cự. Anh Hùng phải quyết định, dù quyết định đó
quá đau xót, là bỏ lại vợ con, mà trong lúc quân giặc đã hò hét ngay
sát bên rồi:
- Anh chạy theo giao thông hào, em bắn yểm trợ cho anh.
Anh Hùng nhìn chị Thàng và hai đứa nhỏ lần cuối cùng. Trong lòng anh
quặn lên một nỗi bi thương. Trời ơi, vợ con mình. Hai đứa nhỏ chẳng
biết còn sống hay đã chết. Anh phóng mình xuống hào chạy băng băng về
hướng lô cốt. Cây Carbine trên tay chị Thàng run lên, những tràng đạn
rải vào những cái bóng đen đã quá gần. Anh Hùng đã bò vào được lô cốt,
giữa những tiếng đạn nổ rền trời. May quá, anh Thi trưởng đồn vẫn
nguyên vẹn. Súng SKZ của địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn có thể
nghe được từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự của chị Thàng.
Nước mắt anh rơi lả chả trên nền đất. Anh đã đếm được đến con số 15,
mà tiếng súng của địch vẫn nỗ dòn dã ngay sát tuyến phòng thủ của chị
Thàng. Anh biết giây phút định mệnh thảm thiết nhất cũng đã điểm. Chị
Thàng sẽ làm gì với quả lựu đạn thứ 16. Anh Hùng đau đớn rên lên trong
lòng : “Chỉ còn một trái lựu đạn nữa thôi, làm sao em cầm cự được đến sáng”.
Chính anh cũng không có được một giây để nghĩ tiếp cái gì sẽ xảy đến
cho vợ con mình, vì dưới chân lô cốt anh tử thủ đã đông nghẹt quân giặc.
Ðủ mọi thứ loại súng nỗ chát chúa khắp đồn, anh Hùng không biết chắc
là mình đã nghe được tiếng nổ của trái lựu đạn thứ 16 chưa.
Cuộc chiến đấu đã kéo dài được một tiếng đồng hồ, quân địch đã phá
được lớp kẽm gai cuối cùng và sắp tràn ngập đồn Giồng Ðình. Lúc đó là 3
giờ sáng rạng ngày 2.10.1965. Tình hình đã quá nguy ngập. Anh Nguyễn
Văn Thi, Ðồn Trưởng, quyết định thà hy sinh còn hơn là để đồn lọt vào
tay địch. Anh giật lấy ống liên hợp từ tay chị Tâm và thét lớn:
-
Hãy bắn lên đầu chúng tôi ! Bắn vào giữa đồn... Hai lô cốt thứ nhứt
và thứ hai đã thất thủ. Tụi tui ở lô cốt thứ ba. Hãy bắn lên trên đầu
chúng tôi, Việt cộng đông lắm. Bắn đi... bắn....
Sau tiếng gọi thống thiết của người Ðồn Trưởng, Pháo Binh Tiểu Khu Gò
Công lập tức bắn vào đồn với loại đầu nổ cao. Loại đạn đặc biệt này nổ
khi cách mặt đất chừng 4, 5 thước, rất hữu hiệu tiêu diệt biển người
địch, quân ta núp trong lô cốt vẫn có hy vọng sống sót. Những cái bóng
đen nhập nhoạng dưới ánh sáng hỏa châu văng tung tóe, tiếng kêu dẫy
chết của chúng như tiếng rú của quỷ. Hàng tràng đạn nổ cao vẫn dội ùng
oàng xuống đồn. Chiếc lô cốt cuối cùng vẫn đứng vững, anh Thi cùng anh
Hùng từ trong những lổ châu mai bắn tỉa từng tên địch. Giữa tiếng
súng nổ dòn, dường như người ta nghe âm thanh rì rì của máy bay. Không
Quân Việt Nam đã tới. Những chiếc A1 khu trục cơ đã xuất kích.
Ðến
đây thì Thượng Úy Sáu Bích, tên chỉ huy trận đánh đã có thể nhận thấy
rằng, cuộc tấn công đồn Giồng Ðình đã đánh dấu chấm hết, với phần
thắng nghiêng về phía Nghĩa Quân Việt Nam Cộng Hòa. Lúc 4 giờ 30 sáng,
chiến địa hoàn toàn im tiếng súng. Quân địch đã kéo những xác chết và
những tên bị thương chạy trốn vào phía bóng tối.
Khi ánh hừng đông của một ngày mới đã lên, hai Ðại Ðội Ðịa Phương Quân
do chính Trung Tá Tiểu Khu Trưởng Gò Công chỉ huy đã đến và tổ chức
bung quân ra lục soát. Quân cộng đã để lại trận địa 23 xác chết, ở giữa
đồn có 6 xác khác nằm bên cạnh lô cốt thứ ba, nơi mà anh Ðồn Trưởng
Thi, Ðồn Phó Hùng và chị Tâm giữ máy truyền tin đã kháng cự mãnh liệt,
thà chết không hàng. Những tên Việt cộng này mang trên mình rất nhiều
lựu đạn và bộc phá, chắc là chúng quyết thí mạng để phá cho bằng được ổ
kháng cự cuối cùng này.
Anh Thi và anh Hùng đã bắn địch theo lối xâu chéo, nghĩa là bắn chéo
góc với nhau tạo thành một xạ trường quét gọn tất cả những tên cộng nào
nằm trong đó. Ngày hôm sau, một người thường dân bị Việt cộng bắt đi
tải thương lén trốn về được đã cho biết số bị thương của chúng chở đầy
sáu chiếc ghe tam bản.
Một lính cộng may mắn bị thương tên Dương Văn
Thiều, 18 tuổi, sống sót và bị bắt làm tù binh. Tại sao may mắn ? Vì
nếu anh ta bị kéo đi theo vào bưng biền, nếu không bị chết vì nhiễm
trùng, bị những quân y sĩ Việt cộng cưa cắt bằng những loại cưa và đục
của thợ mộc, thì cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh mang anh đi thủ tiêu.
Ðó
là lý do giải thích tại sao sau ngày 30.4.1975, người dân Miền Nam
hiếm thấy người thương phế binh cộng sản trên đường phố.
Nhưng đối với anh Hùng, thì tất cả những gì mà Viêt cộng đã trả giá
cho cuộc tấn công không làm anh quan tâm. Ngay khi tiếng súng vừa chấm
dứt., quân cộng đã rút đi, thì anh đã như một người điên lao mình ra
chỗ chiến hào mà chị Thàng đã một mình một súng trấn giữ ở đó, với một
niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ trái lựu đạn thứ 16 được
rút chốt.
Anh Hùng bò vào khúc hào mà anh đã nuốt nước mắt chạy đi.
Chị Thàng cùng hai đứa con của anh nằm chết bên cạnh ba xác Việt cộng.
Anh Hùng gục xuống như thân cây chuối bị một nhát dao bén chém ngọt
làm đôi. Anh biết, nếu trái lựu đạn thứ 16 nổ thì chị Thàng cũng đi
vào cõi chết, vì chị Thàng sẽ không bao giờ cho phép giặc bắt chị hoặc
đạn của chúng bắn vào người chị. Chị Thàng đã chọn một cái chết thật
dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào lòng, chị Thàng bình tĩnh chờ
cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút chốt.
Tiếng nổ kinh thiên cùng với xác thịt và máu của người nữ chiến sĩ đó
đã được đánh đổi với ba mạng giặc. Anh Hùng ôm xác vợ con vào lòng và
gần như ngất xỉu.
Nhưng khi nhìn ra ngoài, những xác giặc thù nằm ngỗn
ngang khắp nơi, trong nỗi đau khổ tột cùng của mình, anh Hùng thấy
trong lòng dậy lên một niềm tự hào đến nghẹn ngào. Sự hy sinh của chị
Thàng đã cứu sống được tất cả những thương binh Nghĩa Quân cùng vợ con
các anh, nhưng trên hết cứu sống chính sinh mạng của người chồng mà
chị yêu mến. Những viên đạn Carbine và 15 trái lựu đạn của chị đã đóng
góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn Giồng Ðình. Một người lính chuyên
nghiệp và thiện chiến nhất cũng chỉ làm được đến ngần ấy. Nếu cái lô
cốt thứ ba không đứng vững, thì chắc chắn tất cả sinh mạng mấy mươi
người Nghĩa Quân và vợ con của đồng Giồng Ðình đều sẽ chết hết.
Anh Hùng ẳm chị Thàng ra ngoài, để trông thấy những người còn sống,
những người vợ lính khác đã gục đầu khóc tiếc thương chị Thàng. Những
nấm mộ đất được đắp vội với ba tấm bia tang tóc. Một của chị Phạm Thị
Thàng, và hai kia của cháu Lê Văn Dũng và Lê Tấn Sỹ. Ôi, những người vợ
của lính trong thời lửa binh. Chị Phạm Thị Thàng, chị Trần Thị Tâm,
và nhiều người chị khác trên khắp nẽo chiến trường, chị Thạch Thị
Ðịnh, chị Bùi Thị Xiếu, chị Am Reng.
Người lính của chúng ta, những
công dân xếp hạng chót nhất trong bậc thang xã hội, nhưng là những
người hứng chịu oan nghiệt trước nhất, là bức tường chắn cho sự an
toàn của hậu phương phồn thịnh và hạnh phúc. Trong đời của các anh
không có được một thứ ưu tiên vật chất nào cả, ngoài cái ưu tiên phải
hy sinh và chết. Có những người lính từ Miền Tây ra tận miền hỏa tuyến
hay trên vùng cao nguyên sương mù Miền Trung, nhiều năm liền không có
lấy được một ngày phép về thăm gia đình.
Nếu anh may mắn, thật đau
xót, quân thù bắn anh bị thương, thì anh mới có cái diễm phúc được nắm
trong tay tờ giấy phép. Còn nếu sự gọi là may mắn đó đi xa hơn một
bước, anh chết, thì anh được phép dài hạn trở về và vĩnh viễn được an
nghỉ ở nơi đã sinh ra anh. Ðầu năm 1972, trong một trận đánh của Sư
Ðoàn 3 Bộ Binh tại khu vực Cồn Tiên nằm sát phía Nam khu phi quân sự
bên này bờ sông Bến Hải, một tiểu đoàn sau nhiều ngày cố gắng đã không
thể chiếm được một cao điểm. Vị Tiểu Ðoàn Trưởng gọi bốn người lính
gốc Miền Tây lên hứa sẽ cấp mỗi anh mười ngày phép nếu các anh chiếm
được ngọn đồi ấy. Bốn người tráng sĩ Kinh Kha đã nai nịt tề chỉnh,
mang thật nhiều lựu đạn bò lên, mỗi người cầm một cây gậy ngắn dò
đường. Ðêm tối như mực. Hễ chọt trúng cái lổ nào là thảy lựu đạn vô cái
lổ đó, vì ở đó chính là cái miệng hầm chốt của địch. Ðến sáng, bốn
người dũng tướng vô danh đó đã reo hò trương Cờ Vàng Việt Nam trên
đỉnh cao điểm. Ôi, những ngày phép đã trở thành một ân huệ chứ không
phải là một quyền lợi đương nhiên của những người lính trận.
Người vợ lính cùng chia sẻ với chồng những nỗi đắng cay thiệt thòi đó,
bằng tất cả sự câm nín nhẫn nhục và vui lòng với những gì mình có.
Một góc hầm tối tăm, một chiếc ghế bố cũ, vài cái nồi, chảo nhem
nhuốc, những cái chén sành và những đôi đũa tre, cùng tiếng cười của
lũ trẻ thơ cũng đủ làm nên thành niềm hạnh phúc vĩ đại của những người
vợ lính. Chị Thàng đã chết đi, anh linh của chị cùng hai cháu bé đã
thăng thiên lên cõi vĩnh hằng, nhưng những người còn sống cùng thời
với chị, cho mãi đến tận bây giờ và ngàn đời sau, dân tộc Việt Nam sẽ
không bao giờ quên tên chị. NGƯỜI CHỊ CAO CẢ PHẠM THỊ THÀNG.
Vì tên
chị đã được trân trọng ghi chép vào những trang bi tráng nhất của lịch
sử dân tộc Việt Nam chống cộng sản quốc tế và Hà Nội, một lũ hung đồ
diệt chủng, diệt dân tộc gớm ghiếc nhất của thế kỷ thứ 20 và của lịch
sử hình thành nhân con người.
AMRENG, NGƯỜI NỮ CHIẾN SĨ CAO NGUYÊN
Quân cộng sản hành quân trên vùng cao nguyên thường khinh rẻ và húng
hiếp các sắc dân Thượng rất thậm tệ. Chúng bắt trai tráng đi dân công,
thậm chí cho bổ sung vào những đơn vị Thượng cộng, người làng thì bị
ép buộc đóng góp lương thực, lúa gạo. Chúng dùng muối, là thứ tối cần
của người dân miền cao, để đổi chác một cách rất bất lợi cho người
Thượng. Người Thượng sống vất vả quanh năm, chỉ trông cậy vào những
mảnh đất rừng khai phá để trồng trọt chút hoa màu hay trồng lúa rẫy,
không đói đã là may lắm rồi, có còn đâu dư dả để cung phụng cho bọn
phỉ cộng. Có nhiều trường hợp cả làng trong rừng sâu chịu không nỗi
cảnh áp bức, giết chóc, đã kéo nhau ra quận hay tỉnh để xin nương náu
với người Kinh.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã lập Bộ Phát Triễn Sắc Tộc để giải quyết
những vấn đề của người thiểu số. Hàng trăm trại tiếp cư tị nạn cộng
sản đã được thiết lập để đón tiếp đồng bào Thượng và giúp đỡ đồng bào
tạo dựng cuộc sống mới. Ðất canh tác được cấp phát vô điều kiện cho
đồng bào Thượng tị nạn cộng sản. Thông thường thì mỗi gia đình thiên
tai hay tị nạn đều được cấp phát 10 bao xi măng và 20 tấm tôn để cất
lại một căn nhà nhỏ. Một nước nhỏ, nghèo là Việt Nam Cộng Hòa, quanh
năm chiến tranh, ngân khoản thiếu thốn, mà đã cắn răng gồng gánh giúp
đỡ hàng triệu người đồng bào bất hạnh của mình. Không phải “Lá lành
đùm lá rách nữa”, mà là “Lá rách đùm lá nát”. Ðã vậy mà thôi đâu,
những làng định cư nhỏ bé và nghèo nàn ấy vừa được dựng lên chưa được
bao lâu, thì Việt cộng đã tràn về đốt phá tan hoang. Những chiếc lá
rách nát lại cắn răng san sẻ cho nhau những gì mình có.
Dưới mắt cộng
sản, thì những người dân chạy về phía chính quyền và quân đội Việt Nam
Cộng Hòa xin được che chở và giúp đỡ, đều mang cái tội tày trời là
“dân ngụy”, là “phản động”, dù có bắn bỏ hay đốt cháy nhà cửa của họ
cũng là chuyện trừng phạt đương nhiên của điều mà chúng gọi là cuộc
“cách mạng giải phóng”.
Với bản chất là một lũ cướp chuyên nghiệp và man rợ, cộng sản Hà Nội
hiện nay không bao giờ từ bỏ cơ hội chiếm đoạt đất khẩn hoang của người
Thượng.
Chúng chờ cho các sắc tộc Thượng khai phá rừng tạo dựng nên
thành những vùng sinh sống màu mỡ trên những tỉnh cao nguyên, là chúng
kiếm chuyện cứớp đoạt một cách trắng trợn ngay, nại lý do đất đai
thuộc về quyền quản lý của nhà nước, người dân không có quyền sỡ hữu.
Mặt khác, chúng áp dụng hình thái thực dân, cho di chuyển dân Kinh gốc
Miền Bắc vào ở trên đất mà người Thượng đã sinh sống từ ngàn năm, lấn
dần, lấn dần, người Thượng kém thế phải lùi mãi vào tận rừng sâu,ở
chỗ chỉ có nước độc, bệnh hoạn và đói kém. Ðã thế mà cộng sản nào chịu
buông tha, chúng vẫn cứ cho phép những người gọi là di dân tràn vào
như vết dầu loang, để đồng bào Thượng chịu không nỗi phải chạy qua đất
Miên xin tị nạn.
Ðây là một tiến trình có chủ mưu, có sách lược để
tiêu diệt dần mòn dân Thượng. Chúng ta có thể thấy ngay rằng, những
người di dân Miền Bắc đã không biết rằng mình đang được rải ra làm
phên dậu phòng thủ dọc theo dãy biên thùy Trường Sơn, án ngữ con đường
đổ xuống đồng bằng duyên hải, nếu có một đạo quân đánh sang từ đất
Lào và Miên. Cũng tốt, cái phên dậu đó giống như con dao hai lưỡi, rồi
cũng có một ngày những đồng bào di dân nghèo Miền Bắc đó sẽ trở thành
một lực lượng mạnh có khả năng thọc sâu mũi dao vào tận tim của bọn
cộng sản để tiễn chúng xuống tận đáy địa ngục.
Tức nước thì có lúc cũng phải vỡ bờ. Ngày 12.4.2004, nhiều chục ngàn
dân Thượng của các sắc tộc sinh sống trong những tỉnh Kontum, Pleiku,
Darlac, Phước Long, Bình Long đã kéo vào những thành phố tỉnh lỵ để
hình thành một cuộc phản kháng bất bạo động, phản đối cộng sản Hà Nội
đàn áp đức tin đạo Tin Lành, chiếm đoạt đất đai và quyền sống căn bản
của người Thượng.
Dưới mắt cộng sản, dù chỉ là một biểu hiện phản đối
nhỏ cũng đã được gán cho cái tội phản động, tội chết, chứ đừng nói gì
đến những cuộc tập trung đông đảo như vậy. Hàng sư đoàn bộ binh của
cộng sản đã được điều động lên phối hợp với công an đàn áp dã man cuộc
tập trung. Hàng trăm đồng bào Thượng đã bị bắn chết, những người bị
thương bị đem vào cô lập trong bệnh viện nhà nước, không ai có thể vào
thăm viếng, kể cả những phóng viên và những nhà ngoại giao nước ngoài.
Ngày đầu xuân Tân Hợi 1971, trên miền cao nguyên của Quân Khu II,
trong chiến dịch quân sự mà cộng sản gọi là Cao Ðiểm Tân Hợi nhằm quấy
phá những tỉnh biên thùy đã không thực hiện được. Có thể bởi hậu quả
của những cuộc hành quân Tây chinh vượt biên Cửu Long của Quân Ðoàn
IV, Toàn Thắng của Quân Ðoàn III và Bình Tây của Quân Ðoàn II trong
năm 1970 đã gây tổn thất nặng ở những kho tiếp tế hậu cần của cộng
sản, nên chúng khó thể đủ sức mở được những mặt trận lớn như mong muốn.
Ðêm 31.1.1971, lúc 3 giờ sáng, một lực lượng cộng quân tấn công vị
trí của Ðại Ðội 838 Ðịa Phương Quân tại làng Plei Kênh Săn thuộc tỉnh
Pleiku..
Cuộc tấn công đã rất sớm bị thảm bại vì quân địch đã không thể ngờ
rằng, có những người vợ lính cũng đã chiến đấu dũng mãnh như thế nào.
Ðại Ðội 838 Ðịa Phương Quân đa số chiến sĩ là người dân tộc Thượng, là
những chiến sĩ sinh ra và lớn lên ở giữa núi rừng cao nguyên, đã hun
đúc các anh trở thành những con người cứng rắn như những tảng đá khổng
lồ trên triền dãy Trường Sơn. Người Thượng quen sống kiếp du mục du
canh, nên khi người lính Thượng Ðịa Phương Quân đóng đồn ở đâu thì vợ
con của các anh cũng đi theo và nhanh chóng thích ứng với môi trường
cùng cuộc sống mới ở nơi đó.
Tuy là phụ nữ, nhưng những người đàn bà
Tây nguyên dẻo dai không kém gì người đàn ông Thượng. Vai mang gùi nặng
trên lưng, chân trần chai sạn vì đá cứng và gai nhọn của núi rừng,
cùng hoàn cảnh sinh tồn khắc nghiệt, bất cứ một người phụ nữ Thượng nào
cũng đã được thiên nhiên rèn luyện nên thành một mẫu người khỏe mạnh,
rắn rỏi, nhưng vẫn giữ được những dường nét mềm mại tràn đầy mạch
sống. Cho nên khi cuộc chiến đấu nổ ra, thì những người đàn bà đó đã
rất nhanh chóng trở thành những người nữ binh hăng hái cầm súng đánh
địch. Một trong những người chị đó là chị Ksor Amreng, vợ của Binh
Nhứt Kpa Dan.
Anh chị Dan và Amreng đều là người sắc tộc Djarai, sinh quán ở quận
Phú Túc, tỉnh Phú Bổn. Từ sau khi thành hôn, anh Dan nhập ngũ, thì chị
Amreng cũng đã theo chồng lên sinh sống trong những tiền đồn hẻo lánh
ở biên giới trong quận Phú Nhơn, tỉnh Pleiku, những địa danh thật xa
lạ với chị : Queng Mep, Plei Kênh Săn. Khi quân cộng sản Bắc Việt nổ
súng tấn công Plei Kênh Săn, chị Amreng đã vững vàng trong tư thế phụ
xạ thủ đại liên cho chồng. Khẩu đại liên M60 nằm phía sau những lổ
châu mai nhỏ đã bị giới hạn rất nhiều khu vực tác xạ, anh Dan quyết
định dời khẩu đại liên sang một vị trí khác có xạ trường rộng lớn và
bao quát hơn.
Trong lúc chị Amreng chạy đi chạy lại để khiêng những
thùng đạn đại liên sang vị trí mới, thì có ba tên Ðặc Công Việt cộng
đã nhào vào đánh cận chiến cới anh Dan. Anh Dan thật dũng cảm, như một
con beo ở rừng xanh, bằng tay không anh đã vật lộn với chúng mà không
nao núng. Chị Amreng vừa vác một thùng đạn đến, quát bảo anh Dan
tránh ra xa. Hiểu ý vợ, anh Dan lăn một vòng, một trái lựu đạn M26 từ
trong tay chị Amreng được ném tới. Ba tên Ðặc Công chưa kịp phản ứng,
thì một tiếng nổ chát chúa đã đốn gục chúng xuống ngay bên cạnh đường
giao thông hào. Khẩu đại liên M60 trong tay đôi vợ chồng Dan và Amreng
đã bắt đầu nổ dòn dã ngăn chận tất cả những cuộc tấn công biển người
của địch vào đồn. Anh Dan đang say mùi thuốc súng, anh đã không để ý
nhiều tên Ðặc Công khác đã bò vào gần khẩu đại liên để mở cuộc cận
chiến lần nữa.
Nhưng chúng không biết rằng người nữ binh vóc dáng nhỏ bé với khuôn
mặt hiền lành như một em bé đã rất cảnh giác. Ba trái lựu đạn M26 đã
được chị quăng ra rất chính xác vào những cái bóng đen đang bò lổn
nhổn. Giữa tiếng súng nổ ầm ầm, chị Amreng đã có thể nghe thấy tiếng
kêu gào thảm thiết của những lính địch trúng phải lựu đạn của chị. Ðến
lúc này thì anh Kpa Dan chợt nhận ra rằng mình đã bị thương, chị
Amreng lập tức trở thành xạ thủ chính, anh Dan lùi qua một bên làm xạ
thủ phụ cho chị. Hào hùng không kém gì những đấng nam nhi, người nữ
chiến sĩ ấy đã cùng với khẩu M60 đốn ngã hàng loạt cuộc tấn công của
giặc. Sinh mạng của cái đồn nhỏ Plei Kênh Săn phần lớn trông cậy vào
khẩu đại liên. Nói một cách chính xác, toàn tiền đồn cậy nhờ vào đôi
bàn tay nhỏ nhắn của một cô gái mà ngày thường rất hiền hòa và ít nói
này.
Khi
ánh bình minh lên, giặc chấp nhận thua cuộc và đã rút đi, chiến trường
đã hoàn toàn im tiếng súng, lũ chim rừng sau một đêm kinh hoàng đã
ríu rít hát ca trên cành lá đón chào một ngày mới. Tin chiến thắng của
Plei Kênh Săn đã bay về đến Pleiku và cái tên Ksor Amreng thật dịu
dàng và thật đẹp ấy đã được người dân thành phố gọi là buồn muôn thuở
này nhắc nhở nhiều. Kinh lẫn Thượng, đồng bào Pleiku đã chung góp gửi
đến chị Amreng và Ðại Ðội 838 Ðịa Phương Quân nhiều tặng phẩm và tiền
thưởng. Thiếu Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Ðoàn II & Quân Khu II đã
đích thân bay trực thăng đến Plei Kênh Săn trân trọng trao gắn cho
người lính không số quân Amreng chiếc huy chương cao quí Anh Dũng Bội
Tinh, một vinh dự hiếm có dành cho một người dân sự .
Tấm gương chiến đấu của chị Ksor Amreng là một trong nhiều tấm gương
thầm lặng còn chưa được biết của những người chị trên cao nguyên trong
cuộc chiến tranh bảo quốc bi tráng của dân tộc Việt Nam. Ngày nay,
những thế hệ đi sau anh chị Dan và Amreng sẽ mãi nhớ rằng, dòng máu
kiên cường uy vũ bất năng khuất mà anh chị cùng những chiến sĩ Thượng
từng một thời thể hiện dưới lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa và Quân Kỳ
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là một niềm kiêu hãnh sáng chói mà họ, những
đồng bào Thượng đang bị kềm kẹp oan khuất dưới bàn tay sắt máu của
cộng sản Bắc Việt, cũng sẽ có ngày vùng lên ném những quả lựu đạn và
bắn những tràng đại liên vào giữa mặt bọn chúng, để hủy diệt chúng, bọn
vô dân tộc vô thần đó, và cho chúng biết lòng quật khởi phi thường
của người Nước Nam.
Phạm Phong Dinh
|
Nữ Anh Thư VNCH |
|
No comments:
Post a Comment