“Sự khác biệt “quan trọng nhất” và “rõ nhất” giữa 2 nền báo chí thời VNCH và thời CHXHCNVN là: Thứ nhất, thời VNCH có “báo chí tư nhân, thời Cộng sản “thì không”. Thứ hai, thời VNCH người làm báo không có bổn phận phải tuyên truyền cho chủ trương và chính sách của nhà nước như thời Cộng sản. Thứ ba, thời VNCH không có người làm báo cũng là “cán bộ của đảng cầm quyền” hay “phải viết theo lệnh của Cơ quan Chủ quản.” Thứ tư,
thời VNCH, người làm báo “có quyền phê bình chính sách của nhà nước và
chỉ trích “những sai lầm của cấp lãnh đạo”. Thời CS thì không được
phép.” Nhà báo Phạm Trần bình luận.
Nhà báo Phạm Trần đang sống ở Hoa Kỳ và là một trong số “rất ít” những
Nhà báo thời VNCH vẫn còn sinh hoạt báo chí ở Hải Ngoại. Ông Phạm Trần
chuyên viết và bình luận về những vấn đề xảy ra ở VN từ 38 năm qua.
Xin mời quý vị theo dõi cuộc phỏng vấn giữa phóng viên VRNs với Nhà báo Phạm Trần. Quý vị có thể nghe cuộc trao đổi trong Chương trình Việt Nam Tuần Qua của Truyền thông Chúa Cứu Thế.
VRNs: Xin ông vui lòng cho biết những nét đặc biệt của truyền thông thời VNCH khác truyền thông thời CHXHCNVN là gì?
Nhà báo Phạm Trần: “Những điểm căn bản khác biệt giữa hai nền báo chí thời VNCH và CHXHCN hiện nay là:
Thứ nhất, CHXHCN không có báo tư nhân, ngược lại thời VNCH có báo tư
nhân. Thời VNCH nói vắn tắt là Miền Nam VN từ khi chia đôi đất nước năm
1954 cho đến 1975 thì lúc nào Miền Nam cũng có báo tư nhân.
Thứ hai, những người làm báo thời VNCH không phải là cán bộ của đảng hay
những người thuộc tiêu chuẩn và điều kiện của nhà nước hoặc của cơ quan
chủ quản. Thời VNCH, người làm báo tức là ký giả hoàn toàn tự do làm
cho bất kỳ một tờ báo nào mà người ta muốn và hài lòng với số lương
bổng, và không ai phải bắt họ viết theo lệnh của cấp trên.
Thứ ba, thời VNCH chủ báo không bao giờ yêu cầu người làm báo viết theo
điều kiện của nhà nước, bởi vì nhà nước không bao giờ xen lẫn vào sinh
hoạt báo chí của người làm báo. Hiến pháp thời VNCH đã bảo vệ quyền tự
do ngôn luận một cách rất chính xác, đàng hoàng và mọi cơ quan phải tuân
theo vì 3 cơ quan của nhà nước là Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp có
những quyền độc lập và bảo vệ nhau. Chế độ VNCH là chế độ bảo vệ quyền
tự do ngôn luận mặc dù đang ở trong thời gian chiến tranh nhưng tự do
ngôn luận của người dân đã được bảo vệ tối đa. Những sự kiểm soát thời
VNCH chỉ quy định ở lĩnh vực an ninh và ở lĩnh vực thuần phong mỹ tục.
Ngược lại, ở chế độ XHCN, người làm báo phải làm theo lệnh của cơ quan
chủ quản, cơ quan đảng, cơ quan đoàn thể, đặc biệt phải làm theo chỉ thị
của Ban Tuyên Giáo chuyên lo về tuyên truyền. Và người làm báo phải
viết theo đường lối và cổ võ vận động người dân làm theo yêu cầu của
đảng và nhà nước.
Thứ tư, thời VNCH, người làm báo không bao giờ tránh né phê bình các
chính sách của nhà nước. Ngược lại, chế độ CHXHCN không có bất kỳ một tờ
báo nào dám phê bình các chính sách của nhà nước. Từ sau năm 1975 cho
đến nay tại Miền Nam và, trước đó tại Miền Bắc 1954 và cho đến nay, tất
cả các báo đều là của nhà nước và người làm báo phải tuyên truyền chính
sách của nhà nước.
VRNs: Trước 1975, truyền thông tác động như thế nào về sự thay đổi xã hội và chính trị VN?
Nhà báo Phạm Trần: Trước 1975, thời VNCH, báo chí có ảnh hưởng
rất lớn về chính sách của nhà nước bởi vì báo chí có quyền phê bình
chính sách nhà nước cũng như cá nhân lãnh đạo của nhà nước nào mà phạm
lỗi và không có phục vụ người dân. Biết bao nhiêu vụ tham nhũng, lộng
quyền, những vụ tai tiếng về đạo đức cá nhân dưới thời VNCH đã được báo
chí phanh phui ra rất nhiều vụ tham nhũng thối nát trong chính quyền từ
năm 1954 - 1975.
Báo chí có ảnh hưởng rất lớn đối với dư luận vì báo chí có quyền tự do
hoàn toàn về tất cả mọi lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
v.v... Báo chí có quyền nói miễn là không vi phạm đến vấn đề an ninh
của Quốc gia VNCH. Còn tất cả mọi vấn đề khác người làm báo có quyền phê
bình, có quyền viết và hoàn toàn tự do đăng mà không cần phải đưa bài
báo của họ cho ai xem trước rồi mới được đăng. Sau khi đăng trên báo,
bài báo đó được nộp cho cơ quan kiểm duyệt. Trừ những vấn đề liên hệ đến
an ninh quốc gia hay thuần phong mỹ tục, ngoài ra các tờ báo vẫn giữ
lập trường của họ. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội thời
VNCH vì đây là một trong những vấn đề làm cho nền chính trị Miền Nam VN
tồn tại đến 1975, bởi nhờ vào dư luận của quần chúng và báo chí đã đóng
góp, bảo vệ và duy trì nền văn hóa cởi mở tự do tại VNCH, tức tại Miền
Nam VN.
Ngược lại với Miền Bắc từ năm 1954 cho đến bây giờ, nền văn hóa của Miền
Bắc vẫn lệ thuộc hoàn toàn vào đường lối của đảng, cơ quan Tuyên giáo
(trước đây là cơ quan Tư tưởng – Văn hóa của đảng) kiểm soát toàn diện
về vấn đề văn hóa, văn nghệ cũng như báo chí. Quyền tự do báo chí và
quyền tự do ngôn luận được quy định trong Hiến pháp và luật báo chí,
nhưng hoàn toàn là những chuyện đầu môi chót lưỡi và [nhà cầm quyền CS]
chưa bao giờ thực hiện. Bởi vì người dân ở Miền Bắc cũng như người dân ở
Miền Nam bây giờ, nói chung người dân VN chưa bao giờ được phép ra báo,
do đảng CS không cho phép và đảng đưa ra những luật quy định rất ngặt
nghèo không cho phép người dân ra báo. Thành ra, ảnh hưởng của xã hội
chỉ là ảnh hưởng một chiều và báo chí chỉ phục vụ đảng, còn tiếng nói
của người dân không bao giờ được phản ánh một cách trung thực trên báo
chí của thời XHCN.
Thời VNCH, người dân có toàn quyền phát biểu ý kiến và toàn quyền đóng
góp tất cả những hiểu biết của họ trong mọi lĩnh vực văn hóa, kinh tế,
xã hội và chính trị. Nhà nước không có quyền kiểm duyệt những bài báo
của người dân. Chủ nhiệm của mỗi tờ báo có quyền lựa chọn đăng những bài
báo có ích lợi cho Quốc gia, cho công luận và cho xã hội. Và, chủ nhiệm
của mỗi tờ báo có quyền không đăng hoặc yêu cầu người viết sửa đổi
những bài bài báo có tính cách gây chia rẽ tôn giáo, xã hội và làm đảo
lộn thuần phong mỹ tục văn hóa của người VN.
Thời VNCH có tự do ngôn luận và tự do báo chí nhưng thời CHXHCNVN thì
không, mặc dù có sự đóng góp ý kiến của người dân. Nhưng các ý kiến của
người dân chỉ đi theo chiều hướng và theo yêu cầu của mỗi tờ báo, mà mỗi
tờ báo theo đường lối của đảng nên các nguyện vọng và ý kiến của người
dân không được đáp ứng. Trong một vài năm vừa rồi, báo chí tương đối có
sự cải tiến và cởi mở nhưng đó chỉ là thay đổi các vấn đề xã hội, bức
xúc của người dân về tham nhũng, về các tội ác trong xã hội, về vấn đề y
tế, giáo dục, lưu thông… Nhưng điều này, không có nghĩa người dân có
quyền phê bình những chính sách của nhà nước, phê bình các cá nhân lãnh
đạo của nhà nước… Báo chí và người dân thời XHCN không bao giờ dám làm
những điều này. Đây là sự khác biệt giữa hai nền báo chí thời VNCH và
CHXHCNVN.
VRNs: Trong bối cảnh VN hiện nay, kinh nghiệm nào của truyền thông thời VNCH có thể áp dụng lại được, và áp dụng như thế nào?
Nhà báo Phạm Trần: Nếu muốn xã hội có sự cải tiến, muốn nhà nước
có tự do dân chủ, xã hội công bằng và có những giải pháp giải trừ nạn
tham nhũng, nạn cường quyền áp bức thì người dân phải có quyền tự do.
Điều này, buộc phải có tư nhân ra báo, phải có nền báo chí khác với nền
báo chí một chiều của nhà cầm quyền CS thì mới phục vụ cho xã hội một
cách có hiệu lực và hiệu quả.
Sở dĩ vấn đề chống tham nhũng ở VN vẫn trì trệ từ bao nhiêu năm nay. Từ
năm 2005, nhà cầm quyền CS đưa ra luật chống tham nhũng, sau đó [nhà cầm
quyền lập ra] Ủy ban Chỉ đạo Trung ương phòng và chống tham nhũng ở cấp
nhà nước và đảng nắm lấy chức vụ này, do ông Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng thay cho ông Nguyễn Tấn Dũng trông coi vấn đề phòng và chống tham
nhũng nhưng tham nhũng vẫn tồn tại và càng ngày càng nghiêm trọng hơn.
Ông Huỳnh Phong Tranh (Tổng Thanh tra Chính phủ) là người lo về vấn đề
thanh tra của nhà nước đã xác nhận điều này trong một cuộc điều trần
trước Ủy ban thường vụ Quốc hội vào ngày 18 vừa qua. Điều này không có
gì xa lạ với người dân VN.
Tại sao người dân VN không muốn tham gia phòng và chống tham nhũng? Bởi
vì người dân không được pháp luật bảo vệ. Tại sao người dân không muốn
tố cáo tham nhũng? Bởi vì không có ai muốn bảo vệ người dân, người dân
sợ bị trù dập, sợ bị trả thù. Và đã có một vài Đại biểu Quốc hội đã lên
tiếng, chỉ vì dám lên tiếng chống tham nhũng một cách rất tích cực cho
nên đã nhận được nhiều cuộc điện thoại và thư từ nặc danh đe dọa và cảnh
cáo không nên xen lấn vào những việc làm của những kẻ có chức có quyền
tham nhũng.
Muốn có sự cải thiện và thay đổi xã hội, cũng như muốn có sự đóng góp
của người dân trong mọi lĩnh vực không những về vấn đề chống tham nhũng,
kinh tế, giáo dục, văn hóa và giải trừ tội ác trong xã hội thì người
dân phải có quyền tự do ngôn luận và phải có nền tự do báo chí trong chế
độ CHXHCNVN. Điều này đã được áp dụng dưới thời VNCH và đây là điều nên
áp dụng cho chế độ CHXHCNVN hiện nay.
VRNs: Xin cám ơn Nhà báo Phạm Trần.
Sài Gòn - 24.09.2013
Huyền Trang, VRNs thực hiện
No comments:
Post a Comment