Đầu thập niên 90, các chế độ Cộng Sản tan vỡ tại Đông Âu, tan vỡ ngay
tại cái nôi của Cộng Sản là Nga Sô. Cơn ác mộng của nhân loại đã chấm
dứt. Lý thuyết Mác Lê bị vất vào sọt rác. Để sống còn, các đồng chí
trong Trung ương đảng của Cộng Sản Việt Nam bèn "tạo" ra cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh, dù rằng khi còn sống Bác đã khẳng định là Bác không có tư tưởng gì cả, Bác Stalin, Bác Mao đã nói hết cả rồi. Bác lại nhấn mạnh trong Đại hội đảng lần thứ hai tại Tuyên Quang diễn ra vào tháng 2 năm 1951: Không, tôi không có tư tưởng gì ngoài chủ nghĩa Mác Lê.
Hung thần Chợ Đệm Nguyễn Văn Trấn, sau 1954 tập kết ra Bắc, có hỏi
thẳng ông Hồ Chí Minh về tư tưởng của ông thì ông ta cũng trả lời rằng
mình không có tư tưởng gì cả ngoài chủ nghĩa Mác Lê.
Bơ vơ như những trẻ mồ côi, không còn chỗ để bám víu, nương tựa, các hậu duệ, đệ tử của Bác đã cố thu thập một số diễn văn, một số phát biểu của Bác khi Bác còn sinh tiền, để vẽ rắn thêm chân, hoa hòe hoa sói vào rồi đánh trống gõ mõ, la ầm lên là Đảng ta được võ trang bằng tư tưởng Hồ Chí Minh. Câu phát biểu của Bác: vì lợi ích 10 năm thì phải trồng cây, vì lợi ích 100 năm thì phải trồng người được các đệ tử của Bác cho là tư tưởng vĩ đại của Bác. Thực ra Bác đã "mượn đỡ" câu nói của Quản Trọng, đời Chiến quốc: "Nhất
niên chi kế tại ư thụ cốc, thập niên chi kế tại ư thụ mộc, bách niên
chi kế tại ư thụ nhân (kế một năm thì trồng lúa, kế 10 năm thì trồng
cây, kế trăm năm thì trồng người)".
"Trồng người", nói nôm na là nhiệm vụ của giáo dục đào tạo
và huấn luyện của một nước. Chuyện giáo dục tại VN trong chế độ Cộng
sản giống như chuyện dài nhân dân tự vệ ngày xưa nghĩa là nói không bao
giờ hết, càng nghĩ càng thấy mọi sự cứ tối mò mò.
Triết lý giáo dục
Bất cứ một nền giáo dục nào cũng dựa trên các căn bản gọi là triết lý
giáo dục- theo ông Lâm Văn Bé, một giới chức cao cấp trong ngành giáo
dục ở VN trước 1975 - Thời Việt Nam Cộng Hòa, để thiết lập một hệ thống
giáo dục mới cho quốc gia, năm 1958, Bộ Quốc Gia Giáo Dục tổ chức một Đại hội giáo dục toàn quốc
đã thảo luận và đúc kết một triết lý giáo dục dựa trên 3 nguyên tắc là
nhân bản, dân tộc và khai phóng. Từ triết lý giáo dục này, 3 mục tiêu
được đề ra là:
- phát triển toàn diện cá nhân.
- phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
- phát triển tinh thần dân chủ và khoa học.
Triết lý giáo dục, cùng 3 mục tiêu kể trên, luôn luôn bàng bạc trong
giáo dục ở miền Nam trong suốt hơn 20 năm tồn tại của Việt Nam Cộng Hòa.
Giáo Dục ở VN dưới chế độ CS từ năm 1946 đến nay chưa hề có một triết lý
về giáo dục. Theo ông Tống Văn Công, báo Lao Động của CSVN số ra ngày
24-10-2012 trong bài "Triết lý giáo dục của người Việt" cho rằng: "Nhiều
người cho rằng giáo dục của ta không thấy lối ra vì không tìm được
triết lý giáo dục. Một số Giáo sư khẳng định rằng nước ta chưa hề có một
triết lý giáo dục..."
Không có một triết lý, nhưng giáo dục Cộng sản có những mục tiêu, đa số -
nếu không nói là hầu hết- là mục tiêu chánh trị và thay đổi thường
xuyên. Dù CSVN có rêu rao Giáo Dục là quốc sách, cần phải thích ứng với
nền kinh tế thị trường nhưng căn bản của nền giáo dục tại VN hiện nay vẫn là giáo dục theo đường lối của Bác và Đảng.
Do đó hệ thống giáo dục của CSVN trên đất nước đã thay đổi nhiều lần từ
năm 1946 ở miền Bắc và trên cả nước từ sau năm 1975 sau khi chiếm được
miền Nam; nhưng kết quả là giáo dục ở VN vẫn còn trong tình trạng hỗn
loạn và lạc hậu, không đáp ứng được những khát vọng của toàn dân. CSVN
đã đao to búa lớn đề ra các chiến lược về giáo dục như:
- Chiến lược phát triển giáo dục do Thủ tướng Phan Văn Khải ban hành ngày 28-12-2001.
- Chiến lược phát triển giáo dục 2010-2020 do Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ban hành ngày 13-6-2012.
Các chiến lược phát triển giáo dục kể trên đều đề ra mục đích chánh trị
là phát huy và củng cố thể chế CS trên đất nước Việt Nam.
Kết quả là sự thay đổi ở cấp Phổ thông (tiểu học và trung học) như người
ta thay đổi áo. Cấp Đại Học thì bát nháo, hỗn loạn. Các trường Đại Học
tư, Đại Học công mọc lên như nấm. Đại Học VN, giờ đây, là một thứ chợ
trời, người mua, người bán tấp nập.
Thời VNCH (1955-1975), khởi đầu chỉ có 2 Viện Đại Học: ĐH Sài Gòn và ĐH
Huế. Mặc dù phải đối phó với cuộc chiến xâm lược đẫm máu và khốc liệt
của CS Bắc Việt (một cuộc chiến toàn diện nhắm vào mọi khía cạnh của
cuộc sống tại Miền Nam), nền giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa đã phát
triển vượt bực, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân,
đào tạo được một lớp người có khả năng, thực sự đáp ứng được các nhu
cầu phát triển của đất nước. Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, VNCH, tuy
có chiến tranh tự vệ triền miên, Giáo Dục vẫn không ngừng phát triển,
tiến bộ không thua gì các nước khác ở Đông Nam Á. Luyến tiếc một thời xa
xưa, ta không khỏi ngậm ngùi nhớ lại một nền Giáo Dục của VNCH trong xứ
mạng trồng người cho quê hương miền Nam.
Trong thời VNCH:
- Có 4 Viện Đại Học (VĐH) công lập: VĐH Sài Gòn, VĐH Huế, VĐH Cần Thơ,
Viện ĐH Bách Khoa Thủ Đức(1974) có tiền thân là Trung Tâm Quốc Gia Kỹ
Thuật (1957) và Học Viện Quốc Gia Kỹ Thuật (1972).
- Các Viện Đại Học tư: VĐH Đà Lạt, VĐH Vạn Hạnh, VĐH Phương Nam, VĐH An
Giang, VĐH Cao Đài, VĐH Minh Đức các Học Viện chuyên biệt như Học Viện
Quốc Gia Hành Chánh, Trường Chính Trị Kinh Doanh tại Đà Lạt, Học Viện
Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974).
- Các Đại Học Cộng Đồng (ĐHCĐ) được mở ra từ năm 1971 theo mô hình
Community College của Hoa Kỳ như: ĐH CĐ ở Tiền Giang; ĐHCĐ ở Duyên Hải;
ĐHCĐ Quảng Đà ở Quảng Nam, Đà Nẵng; ĐHCĐ Long Hồ ở Vĩnh Long.
Dưới thời Xã Hội Chủ Nghĩa:
Các ĐH mọc lên như nấm, hồng nhiều hơn chuyên theo đúng đơn đặt hàng của
đảng CS và nhà nước XHCN, Năm 2000, VN có 178 trường Đại Học và Cao
Đẳng; năm 2012, VN có 419 trường. Tỷ lệ tăng 250% chỉ trong có 12 năm.
20% là các Đại Học tư thục. Có lẽ VN dưới thời xã hội chủ nghĩa, là nước
độc nhứt trên thế giới, trường Đại Học được mở trước khi có trụ sở và
nhân viên giảng huấn cơ hữu. Kết quả là sự yếu kém của Đại học VN so với
các nước ở Đông Nam Á. Còn giáo dục ở bậc Tiểu học và Trung học là cả
một ác mộng cho các phụ huynh:
- Chương trình học thay đổi như chong chóng.
- Xin được cho con em vào học là cả một mốt ưu tư, một ác mộng cho các
bậc cha mẹ. Nào là phải hối lộ, phải tốn tiền- rất nhiều tiền- không kể
tiền phí tổn ở các lớp học thi, các lớp dậy kèm.
Giáo Dục và Đào Tạo ở VN hiện nay hay nói nôm na trồng người ở VN,
theo thống kê của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo năm 2011-2012, có một đội ngũ
nhân viên giảng huấn là 84, 109 người trong đó có 9.152 (11%) Tiến sĩ,
36.360 Cao học mà VNCS gọi là Thạc sĩ (43%) 38.579 Cử nhân (46%). Chỉ có
độ 10% Tiến sĩ được đào tạo tại ngoại quốc. Bằng cấp cứ loạn cào cào,
không ra cái thể thống gì. Ai cũng là Tiến sĩ, Thạc sĩ. Trong 16
thành viên của Bộ Chánh Trị, tất cả đều có học vị Tiến sĩ, trừ 1 thành
viên gốc thiểu số, bà Tòng Thị Phóng, chỉ có Cao học. Trong số 20 Bộ
Trưởng trong Chánh Phủ CS hiện nay, có 12 ông Tiến Sĩ. Ngay cả ông Bộ
Trưởng Công An cũng đeo bằng Tiến sĩ. Các Đại tá, Tướng lãnh viết bài
trên các báo chí của nhà nước đều để thêm tước vị Tiến sĩ hoặc Thạc sĩ
bên cạnh cấp bậc trong quân đội.
Trong một Hội nghị về Giáo Dục do Mặt Trận Tổ Quốc tổ chức ngày 31 tháng
7 năm 2013, Phó Chủ tịch nước, GS Tiến sỹ Nguyễn Thị Doan (lại một tiến
sĩ nữa) trăn trở "số học sinh ra trường càng ngày càng đông, tiến
sĩ, thạc sĩ càng ngày càng nhiều nhưng tại sao đất nước chậm đổi mới và
có vẻ tụt hậu xa so với các nước khác trong khu vực". Có người chỉ ở
VN, không biết tiếng Anh, cũng có bằng Tiến sĩ sau khi nộp đủ tiền cho
một ĐH "dỏm" ở Mỹ. Bộ Giáo Dục và Đào tạo của CS còn rêu rao là cho tới
năm 2020, sẽ đào tạo ra 20.000 Tiến sĩ. Cũng cho tới năm 2020, dự án trù
liệu VNCS sẽ có 1 triệu kỹ sư đạt trình độ quốc tế. Thực là một hoang
tưởng của những người đang đi trên mây, của những người bị bệnh mộng du
(schizophrenia)?
Với đội ngũ Tiến sĩ đông đảo như vậy, mỉa mai thay Đại Học VN lại không
có tên trong Bảng xếp hạng 200 ĐH hàng đầu trên thế giới. Thực là trái núi đẻ ra con chuột.
Theo Tiến sĩ Lê Văn Út (Toán học Phần Lan), từ năm 2006 đến năm 2010, VN
chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ. Năm 2011, không có bằng
sáng chế nào được đăng ký. Nếu so sánh với các quốc gia vùng Đông Nam Á
ít dân hơn VN, có trình độ kỹ thuật kém hơn hay ngang hàng với Miền Nam
VNCH trước 1975, ngày nay VN của Xã Hội Chủ Nghĩa đang bị bỏ xa. Tân Gia
Ba (645 bằng sáng chế/ 4.5 triệu dân), Mã Lai (161 bằng sáng chế/ 28
triệu dân), Thái Lan (53 bằng sáng chế / 68 triệu dân), Indonesie (7
bằng sáng chế / 230 triệu dân), Brunei (1 bằng sáng chế / 0.5 triệu
dân). Về số lượng các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí khoa học
quốc tế, theo GS Nguyễn Văn Tuấn (Úc): tổng số các bài nghiên cứu khoa
học của cả nước VN chỉ tương đương hay không bằng số bài của 1 trường
đại học ở Thái Lan hay ở Mã Lai. Thực là xấu hổ cho một nước mà ở đâu
cũng có Tiến sĩ, Thạc sĩ. Tóm lại, CSVN đã thất bại thê thảm trong công cuộc trồng người cho đất nước.
Hậu quả tai hại của nền giáo dục của CSVN từ 40 năm nay đã và đang ảnh
hưởng đến giới trẻ VN, ảnh hưởng trên toàn đất nước về mọi phương diện.
Hệ lụy của nó sẽ kéo dài trên vài thế hệ con dân đất Việt.
Giáo Dục Hoa Kỳ và Việt Nam
Trong 21 năm hiện hữu của Việt Nam Cộng Hòa, ảnh hưởng của giáo dục Mỹ
mới ở thời kỳ bắt đầu trong các ngành kỹ thuật, trong Y Khoa qua những
Giáo Sư, chuyên viên được đào tạo ở Mỹ. Nhưng chưa có một trường học Mỹ nào - từ Trung Tiểu học cho đến Đại học Mỹ - được mở ra ở Miền Nam.
Từ thượng cổ, Giáo Dục vẫn là một vũ khí lợi hại trong việc tiến chiếm
để đô hộ các nước, biến người dân các thuộc địa thành những người trung
thành với mẫu quốc. Trung Hoa đã thành công trong việc đô hộ rồi đồng
hóa các nước nhỏ ở chung quanh, biến dân của các nước này thành những
người Trung Hoa chỉ trong vài thế hệ. VN đã bị Trung Hoa đô hộ cả ngàn
năm nên dân tộc Việt đã chịu ảnh hưởng nặng nề giáo dục của Trung Hoa
nhưng VN không bị đồng hóa.
Sang thời kỳ Pháp thuộc gần 100 năm, VN lại chịu ảnh hưởng văn hóa Tây
Âu. Văn tự Việt theo lối La Mã là do Linh Mục Alexandre de Rhodes
(1591-1660), một Giáo sĩ Giòng Tên người Pháp, đưa vào VN thay thế cho
chữ Nôm - một loại chữ viết giống như chữ Nho của người Tầu. Kết quả VN
là nước duy nhứt ở Á Châu dùng chữ La Mã làm quốc ngữ, muôn vàn ích lợi
cho dân Việt. Đi kèm với việc khai hóa, khai thác, người Pháp đã xây
dựng cả một hệ thống các trường Trung, Tiểu học ở VN. Đại Học Hà Nội,
Đại Học Sài Gòn được người Pháp dựng lên cho toàn cõi Đông Dương Việt
Miên Lào vào đầu thế kỷ 20. Ông Hoàng Norodom Sihanouk (Cao Miên), các
Hoàng thân Lào Souvana Phouma, Souphanuvong đều sang VN du học.
Sau khi đã chiếm được Miền Nam năm 1975, CSVN đã tìm cách dẹp bỏ hoàn
toàn các dấu vết của giáo dục Âu Tây ở VN. Các trường học ngoại quốc,
các Trung Tâm Văn Hóa ngoại quốc bị đóng cửa, cấm hoạt động. Những người
có quá khứ du học tại Mỹ bị cho vào tù, bị kết tội hoạt động gián điệp
cho CIA của Mỹ. Một Viện Bảo Tàng Chiến tranh được lập ra ở Sài Gòn để
kết tội Mỹ.
Sau 40 năm thất bại trong tiến trình áp đặt chế độ CS lên quê hương
khiến đất nước càng ngày càng kiệt quệ suy sụp, CSVN, hơn bao giờ hết,
đang lạy van, cầu xin Hoa Kỳ trở lại VN.
Hoa Kỳ đang trở lại VN, nhưng bằng một chiến lược gọi chiến lược mềm (soft strategy), đó là đưa giáo dục Mỹ vào VN.
Trong lịch sử, Hoa Kỳ không đô hộ để khai thác bất kỳ một lãnh địa, một
quốc gia nào nhưng các chương trình của Mỹ Quốc, thiết lập sau đại
chiến thế giới thứ 2 như Plan Marshall, Chương trình Học bổng
Fulbright... đã đưa "truyền thống Mỹ, văn hóa Mỹ" đến mọi nước
trên thế giới. Tưởng cũng nên nhắc lại, giáo dục đại học của Mỹ đã đóng
một vai trò không nhỏ trong cuộc chiến tranh ý thức hệ với khối Cộng
Sản, chiến tranh lạnh với Nga Sô.
Ngay cả trước khi bỏ cấm vận và nối lại bang giao với Việt nam vào năm 1995, Hoa Kỳ đã coi việc đầu tư vào giáo dục kiểu Hoa Kỳ vào VN là hình thức hữu hiệu nhứt làm biến đổi kẻ thù xưa
với mục đích ảnh hưởng đến các thế hệ lãnh đạo VN trong tương lai.
Nhiều phái đoàn giáo dục Hoa Kỳ, nhiều GS Hoa Kỳ với tư cách cá nhân, đã
đến VN. Phúc trình của ĐH Harvard, sau khi quan sát, đã nói đến những
yếu kém của hệ thống Đại học của VN, đề nghị những phương cách sửa đổi.
Hoa Kỳ nói thẳng, không úp mở, về ý định chuyển hóa VN bằng con đường giáo dục.
Hoa Kỳ có cơ hội chuyển hóa nền Giáo Dục tại VN, để về lâu dài, khiến
nước này trở nên dân chủ hơn, tôn trọng nhân quyền, tôn trọng quyền tự
do ngôn luận hơn, để rồi liên kết chặt chẽ với Hoa Kỳ.
(The US has the opportunity to shape the Vietnamese Education System
in a way that, in the long term, will result in a VietNam that will be
more democratic, more respecful of human rights and freedom of speech,
and therefore more closely tied to the United States.)
Vả lại trước cơn khủng hoảng về Giáo Dục và Đào Tạo, trước tương lai mờ
mịt của đất nước vì nền giáo dục quá yếu kém, VNCS không còn chọn lựa
nào khác, đã cầu khẩn Hoa Kỳ trợ giúp. Phó Thủ Tướng CSVN Nguyễn Thiện
Nhân, một người đã học ở Hoa Kỳ theo chương trình Học bổng Fulbright,
trong một lần gặp gỡ Đại Sứ Mỹ Michael Michalak, đã cầu xin Hoa Kỳ giúp
đỡ VN trên 2 lãnh vực:
- Mở Đại Học Mỹ ở VN.
- Đào tạo 2,500 PhD ngay tại Hoa Kỳ cho VN từ nay(2008) cho đến năm 2020.
Cũng trong thời gian đó ở trong nước, VN hứa hẹn sẽ đào tạo 20,000 PhD.
Hiện nay Vietnamese Education Fund của Mỹ tài trợ mỗi năm khoảng 70 Học
viên sang Mỹ học PhD.
Cựu Đại Sứ Mỹ Michael Michalak tại VN: người hăng hái cổ động viện trợ giáo dục cho VN.
Trong chuyến du hành sang Hoa Kỳ của Thủ tướng VNCS Nguyễn Tấn Dũng vào
tháng 6 năm 2008, Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ James Glassman và Ông
Phạm Vũ Luận, Thứ trưởng Giáo Dục và Đào tạo của VN đã ký kết Bản Hợp
Tác về Giáo Dục giữa hai nước.
Hiện nay có khoảng hơn 60 Đại Học Hoa Kỳ có chương trình liên kết (joint program) với các ĐH của Việt Nam.
Học bổng Fulbright
Thành lập năm 1946 bởi Thượng Nghị Sĩ J William Fulbright (1905-1995) với mục tiêu:
- Để công dân Hoa Kỳ có thể theo học, khảo cứu... tại ngoại quốc.
- Công dân các nước trên thế giới có thể đến Hoa Kỳ để học hoặc khảo cứu trong đủ mọi ngành từ khoa học đến văn chương, báo chí.
Đây là một học bổng danh tiếng vào bậc nhứt của Hoa Kỳ trên thế giới. Kể
từ ngày thành lập, 43 người được giải Nobel đã từng được học bổng
Fulbright, cũng như 78 người được giải Pulitzers là những người được học
bổng này trong quá khứ.
Ngoại Trưởng HK Hillary Clinton tại lễ kỷ niệm
20 năm Fulbright tại Đại Học Ngoại Thương, Hà Nội ngày 10/7/2012.
Cho tới nay, sau 20 năm hiện hữu, chương trình học bổng Fulbright đã đưa
hơn 1,000 giáo sư, học giả, sinh viên VN sang Hoa Kỳ để học tập, nghiên
cứu trong mọi ngành tại các Đại Học danh tiếng. Học bổng Fulbright được
hiện hữu ở VN từ năm 1992, tức là 3 năm trước khi lệnh cấm vận của Hoa
Kỳ được TT Bill Clinton bãi bỏ, quan hệ bình thường giữa 2 nước đượn nối
lại năm 1995.
Quỹ Giáo Dục Việt Nam
Quỹ Giáo Dục Việt Nam (VietNam Education Fund) do Hoa Kỳ thành
lập và tài trợ từ năm 2,000. Các thành viên trong Hội Đồng Quản Trị của
Quĩ Giáo Dục đều do Tổng Thống Hoa Kỳ bổ nhiệm. Quĩ Giáo Dục VN (QGDVN)
hoạt động trong tư cách độc lập, không qua trung gian các công ty tư vấn
giáo dục ở trong hay ngoài nước. Kể từ khi chánh thức hoạt động năm
2003 cho đến nay, QGDVN đã cấp học bổng cho 389 nghiên cứu sinh Việt Nam
sang học các Đại Học danh tiếng của Hoa Kỳ. Có 83 người đã hoàn tất bằng Tiến sĩ.
Nhân viên của Trường Washington State University đang tư vấn
cho sinh viên VN tại Hội chợ Giáo Dục USA tại Hà Nội 8/4/2011.
Trung tâm tư vấn giáo dục Hoa Kỳ
Education USA là một mạng lưới toàn cầu với hơn 400 văn phòng tư
vấn giáo dục trên thế giới. Trung tâm tư vấn giáo dục Education USA
quảng bá giáo dục bậc đại học của Hoa Ký. Tại Việt Nam, 2 trung tâm tư
vấn giáo dục Hoa Kỳ, trực thuộc Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đã được thành lập tại
Hà Nội và Sài Gòn để giúp những sinh viên muốn du học Hoa Kỳ. Trung tâm
giải đáp mọi thắc mắc, thông tin cập nhật về các điều kiện, cơ hội học
tập ở Hoa Kỳ.
Hỗ trợ trực tiếp Giáo Dục tại VN
Hồi tháng 2 năm 2013, Ngân Hàng Thế Giới đã viện trợ cho VN 150 triệu
dollars để giúp VN cải tổ giáo dục, theo đó 50 triệu dollars dược dùng
để hỗ trợ cho Chánh sách phát triển Đại Học, tăng cường quản trị tài
chánh, chất lượng giáo dục.
Trong khi đó, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu viện trợ cho VN 90 triệu Mỹ Kim cho giáo dục ở bậc trung học phổ thông.
Giáo Sư Mỹ sang giảng dạy tại VN
Quĩ Giáo Dục VN (Vietnam Education Fund) tài trợ và tổ chức
chương trình đưa Giáo Sư Mỹ thuộc các Đại học hàng đầu của Hoa Kỳ sang
giảng dạy tại VN. Chương trình này đã bắt đầu từ năm 2008. Các GS Mỹ sẽ
giảng dạy bằng tiếng Anh. Bà Virginia Palmer, Phó Đại Sứ Mỹ tại VN khẳng
định: Chương trình đưa các GS Mỹ sang giảng dạy tại VN là một trong
những ưu tiên cao nhứt của Hoa Kỳ trong việc tăng cường hợp tác với VN
trong lãnh vực giáo dục.
Kể từ năm 2008, đã có 11 GS Mỹ giảng dạy tại VN theo chương trình này. Năm 2012, đã có thêm 6 GS nữa sang VN giảng dạy.
Hê thống các trường Mỹ tại VN
Hiện nay một hệ thống các trường gọi là trường Trung học và trường Tiểu
học Việt Mỹ đã được mở ra tại nhiều nơi ở VN như tại Vĩnh Long, Cần Thơ,
Vũng Tầu, Sài Gòn, Hà Nội. Chương trình đặt nặng phần Anh Ngữ do những
người Mỹ giảng dạy.Học phí rất cao, từ 7,000 tới 8,000 dollars một năm.
Chỉ có con cháu các cán bộ đảng viên, con cháu các đại gia mới đủ tiền
theo học.
Các nước khác như Úc, Pháp, Đức và Tân Tây Lan cũng đang cố gắng xuất cảng nền giáo dục của họ sang Việt Nam:
- Pháp đã cho các chuyên viên, các Bác sĩ VN sang du học tại Pháp.
- Một số trường trung tiểu học của Pháp như hệ thống trường trung, tiểu học, colege đã được mở cửa hoạt động ở Sài Gòn.
- Viện Tim học tại Sài Gòn do Pháp lập ra và viện trợ từ nhân lực đến tài lực.
- Hai nhà thương Pháp- Hopital Franco-Vietnamien được Pháp mở ra tại Sài Gòn và Hà Nội.
...
Du học sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ
Hiện nay có khoảng 15.000 du học sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ (đứng hàng thứ
8 trong danh sách du học sinh ngoại quốc ở Mỹ), trong đó những du học
sinh được học bổng của Hoa Kỳ để đi du học chỉ chiếm một phần nhỏ, số
còn lại là các du học sinh du học với tính cách tự túc. Các ứng viên
được Học bổng do Hoa Kỳ cấp, như học bổng Fulbright, đều được Hoa Kỳ
chọn lựa rất kỹ càng để du học sinh có thể bắt kịp chương trình của các
ĐH nổi tiếng tại Hoa Kỳ. CSVN cũng đã lợi dụng sự cởi mở của các ĐH ở
Hoa Kỳ (cũng nên biết ở Hoa Kỳ có nhiều loại Đại Học khác nhau. Có những
ĐH chỉ cần đóng đủ tiền là được ghi danh theo học) nên các cán bộ, viên
chức chánh phủ CS đưa con cháu sang Hoa Kỳ để theo học. Học phí, đời
sống ở Mỹ không rẻ nên có lẽ chỉ có con cháu các đảng viên, các đại gia
CS mới đủ khả năng du học ở Mỹ. Vì chỉ có bọn CSVN "ăn cắp ngày" này mới
có đủ tiền cho con cháu đi ra nước ngoài học hỏi. CSVN đang đầu tư vào
đám con cháu đang du học tại ngoại quốc, tại Mỹ; đầu tư cho tương lai
của bản thân gia đình của họ, chứ không phải đầu tư cho quê hương xứ sở.
Đám "cộng con" này sẽ nối nghiệp cha, chú của chúng để tiếp tục "muôn năm trường trị", đè đầu cưỡi cổ người dân.
Tuy vậy, người ta cũng có một chút hy vọng hy các con cháu của Bác
và đảng, sau khi bị tiêm nhiễm ý niệm tự do, dân chủ bởi giáo dục Mỹ,
bởi đời sống ở Mỹ, sẽ không ít thì nhiều thay đổi đời sống chính trị tại
quê nhà. Vâng, chỉ là hy vọng thôi!!
Tóm lại người Mỹ đang có kế hoạch biến đổi Việt Nam bằng con đường giáo dục, một kế hoạch lâu dài.
Người Việt quốc gia, người Việt tỵ nạn CS tại khắp mọi nơi trên thế giới
chỉ mong muốn một điều là chế độ CS, một chế độ phản lại lương tâm của
loài người, phải bị đào thải sớm chừng nào hay chừng đó để dân tộc VN có
được dân chủ. Đó là điều kiện tiên quyết cho tiến bộ, cho viễn tượng
theo kịp các nước khác ở Đông Nam Á. Trong hợp tấu khúc tiến bộ của nhân
loại, VN sẽ không là một nốt nhạc thừa vô nghĩa.
Quê hương đang mất dần
về tay Trung Cộng do sự cấu kết của tập đoàn CSVN. Chỉ có tự do dân chủ
không Cộng Sản mới cứu được quê hương, đánh bại kẻ thù đang xâm lược.
Montréal, Canada
No comments:
Post a Comment