- Tấm màn đen che giấu Quyền Con Người bị hạn chế và hành hạ ở Việt Nam
đã bị Thế giới vén lên tại “cơ chế kiểm định kỳ phổ quát” (UPR, The Universal Periodic Review) Chu kỳ II của của Liên Hiệp Quốc họp tại Geneve, Thụy Sỹ từ ngày 05 đến 07 tháng 02 năm 2014.
Phần lớn phát biểu của 106 Quốc gia và 227 khuyến nghị của Hội đồng Nhân
quyền tập trung vào yêu cầu Chính phủ Việt Nam quan tâm đến các quyền
tự do căn bản của con người gồm: Tự do tư tưởng, Tự do ngôn luận, Tự do
báo chí, Tự do hội họp, Tự do lập hội và Tự do Tôn giáo.
Bình đẳng giới, quyền của Phụ nữ, quyền của Trẻ em, chống buôn người,
quyền được bào chữa, chống khủng bố các Luật sư nhân quyền, chống bắt
người tùy tiện, chống đe dọa và bắt giữ những người muốn diễn đạt tư
tưởng ôn hòa, quyền chủ hữu đất đai của dân phải được bảo vệ, chống
cưỡng chế nông dân v.v... cũng đã được ghi trong 227 khuyến nghị.
Các nước cũng khuyến cáo Nhà nước Việt Nam cần tôn trọng tự do hoạt động Internet của người dân.
Điển hình như Hòa Lan (Netherlands) yêu cầu Việt Nam cho phép những Nhà
truyền thông xã hội (bloggers), ký giả, những người sử dụng Internet
khác và các Tổ chức phi chính phủ được cổ xúy và bảo vệ quyền con người,
đặc biệt cần có bảo đảm những Luật lệ liên quan đến Internet phải tôn
trọng quyền tự do tư tưởng và thông tin.
(Netherland: Allow bloggers, journalists, other internet users
and NGOs to promote and protect human rights specifically by ensuring
that laws concerning the Internet comply with the freedom of expression
and information.)
Thụy Điển chỉ trích việc Việt Nam có thêm những điều lệ gia tăng kiểm
soát Internet and bắt bớ bừa bãi những người muốn được tự do phát biểu.
(Sweden: noted an increase in regulations to control internet,
and arrests of persons for exercising their right to freedom of
expression.)
Nhật Bản đã đề nghị Việt Nam hãy thi hành những biện pháp để “bảo đảm
quyền tự do tư tưởng, quyền tự do, độc lập của báo chí và Internet.
(Japan: Actively promote steps to guarantee freedom of
expression, as well as the freedom and independence of the press,
including on the internet.)
Nước Ý thì yêu cầu Việt Nam thi hành những biện pháp để cổ võ tự do tư
tưởng, lập hội và tự do báo chí phù hợp với những tiêu chuẩn hiện đại
của cộng đồng Quốc tế.
(Italy: Further implement measures aimed at promoting freedom
of expression and association and freedom of the media in line with the
most advanced international standards.)
Đại biểu nước Bỉ (Belgium) nói bất cứ Luật nào nhằm kiểm soát Internet
phải tuân thủ những cam kết quốc tế về nhân quyền của Việt Nam vì Việt
Nam là thành viên của Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị
(ICCPR, International Covenant on Civil and Political Rights).
(Belgium: Ensure that any law governing the internet is in
compliance with Viet Nam’s international human rights obligations as a
State party to the ICCPR (International Covenant on Civil and Political Rights).
Đại biểu của các nước cựu Cộng sản ở Đông Âu như Lithuania, Ba Lan
(Poland) và Slovakia ghi nhận Việt Nam đã có những nỗ lực tuân thủ những
cam kết quốc tế và đã có Luật về các quyền kinh tế và xã hội, nhưng họ
vẫn bày tỏ sự quan ngại về các quyền tự do tư tưởng, hội họp ôn hòa, lập
hội mà Việt Nam đã cam kết, tự do tôn giáo-tín ngưỡng, tình trạng của
những người dân Việt Nam muốn bảo vệ quyền con người và quyền của các
nhóm thiếu số. Slovania muốn Việt Nam có những luật lệ và cơ chế quy
định những biện pháp bảo đảm quyền phát biểu và hội họp theo đúng các
tiêu chuẩn Quốc tế.
(Lithuania: Take all necessary actions to respect and promote
the right to freedom of expression, peaceful assembly and association in
line with its international human rights obligations.
Poland: Commended ongoing efforts to comply with international
obligations. It remained concerned about the situation of human rights
defenders, religious and ethnic minorities.
Slovakia: Commended cooperation with special procedures and
adoption of legislation on socio-economic rights. It invited the
Government to take legislative and institutional measures to ensure that
freedom of expression and assembly are in line with international
standards.)
Riêng Hung Gia Lợi, ghi nhận Việt Nam đã có tiến bộ về giáo dục quyền
con người, nhưng lo ngại về những biện pháp chế tài hạn chế các quyền tự
do tư tưởng, truy tố các nhà văn, ký giả, các nhà truyền thông xã hội
và những người bảo vệ nhân quyền.
(Hungary: noted improvements in human rights education. It was
concerned about recent legislation restricting freedom of expression
and prosecuting writers, journalists, bloggers and human rights
defenders.)
ÂU-MỸ MUỐN GÌ?
Nước Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan khuyến khích Việt Nam hãy bảo đảm mọi công
dân được tự do tư tưởng và hội họp không bị làm khó dễ hay bị bỏ tù.
(The United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland: encouraged
Viet Nam to ensure that all citizens have the right to freedom of
expression and assembly without fear of harassment or imprisonment.)
Ái Nhĩ Lan cũng rất quan ngại về những trường hợp bị đàn áp, bị bắt tù
những người đấu tranh bảo vệ nhân quyền, sự vắng mặt của nền báo chí độc
lập và sự kiện nhà nước đã gia tăng theo dõi những nhà cung cấp dịch vụ
Internet.
(Ireland: was gravely concerned about reported harassment and
imprisonment of human rights defenders, and noted the lack of an
independent media and reports of increasing surveillance by State-owned
Internet providers.)
Hoa Kỳ thì bày tỏ hài lòng về những tiến bộ trong việc bảo vệ quyền của
người đồng tính, song tính, chuyển giới (LGBT, lesbian, gay, bisexual,
and transgender). Tuy nhiên Đại diện của Mỹ cũng quan ngại về những hạn
chế quyên tự do tôn giáo-tín ngưỡng, quyền thành lập các nghiệp đoàn độc
lập và sách nhiễu các Tôn giáo không đăng ký với nhà nước.
(The United States of America welcomed progress on protecting
the rights of LGBT persons. It expressed concern about restrictions on
freedom of religion and formation of independent trade unions, and about
harassment of unregistered churches.)
Sau khi các cuộc họp ở Geneve kết thúc, Sứ quán Mỹ ở Hà Nội phổ biến
toàn văn bản tiếng Việt lời tuyên bố chi tiết hơn của ông Peter Mulrean,
Đại diện lâm thời Phái bộ Hoa Kỳ tại kỳ họp này về Báo cáo của Việt
Nam:
(Peter Mulrean: Chúng tôi hoan nghênh việc Việt Nam ký Công
ước Chống Tra tấn, tiến bộ về bảo vệ quyền của người đồng tính/song
tính/chuyển giới, và số lượng đăng ký nhà thờ tăng lên.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn sách nhiễu và bắt giữ những người thực hiện
các quyền hạn và các quyền tự do phổ quát, như tự do ngôn luận và lập
hội. Việt Nam cũng hạn chế tự do tôn giáo, và việc sách nhiễu các nhà
thờ không đăng ký vẫn diễn ra.
Chúng tôi quan ngại về sự hạn chế đối với việc thành lập nghiệp đoàn
độc lập, về việc sử dụng lao động trẻ em và lao động cưỡng bức, và việc
chính phủ sử dụng lao động bắt buộc.
Chúng tôi cũng thất vọng về việc Việt Nam ngăn cản xã hội dân sự tham gia vào toàn bộ quá trình UPR.
Chúng tôi đề xuất với Việt Nam:
1. Sửa đổi luật an ninh quốc gia mơ hồ được sử dụng để đàn áp các
quyền phổ quát, và thả vô điều kiện tất cả các tù nhân chính trị, như
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân, Điếu Cày và Trần Huỳnh Duy Thức;
2. Bảo vệ các quyền của người lao động được quốc tế công nhận và tăng cường thực thi luật cấm lao động cưỡng bức; và
3. Nhanh chóng phê chuẩn và thực thi Công ước Chống Tra tấn.”
Phản ứng chính thức từ Việt Nam về quan điểm của Mỹ chưa có, nhưng Báo
Quân đội Nhân dân (QĐND) là cơ quan thường “làm thay việc của Chính phủ”
đối với những lời chỉ trích Việt Nam, viết ngày 11/02/2014: “Cần nói ngay rằng, trong tuyên bố này, Đại sứ quán Hoa Kỳ vẫn mang thái độ kỳ thị, thiếu thiện chí với Việt Nam.”
Tác giả bài viết là Kim Ngọc, một trong số người có bài thường xuyên
trên mục “chống diễn biến hòa bình” của báo QĐND viết tiếp rằng: “Một
số người mà Đại sứ quán Hoa Kỳ cho rằng, "bị sách nhiễu" về tự do ngôn
luận, tự do báo chí, thực chất những trường hợp vi phạm pháp luật Việt
Nam, những hoạt động tôn giáo chưa được Nhà nước cấp phép. Nhà nước Việt
Nam luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của công dân, nhưng không
phải là thứ tự do vô chính phủ. Nếu ai đó cố tình lợi dụng dân chủ, tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo... để chống lại Đảng, Nhà
nước Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc đều bị xử lý bình
đẳng, nghiêm minh bằng pháp luật. Điều này thì không chỉ có ở Việt Nam
mà bất cứ một quốc gia độc lập có chủ quyền nào cũng làm như vậy.”
Bênh vực những việc làm sai trái của nhà nước chống quyền con người là
nhiệm vụ bình thường của một người được nhận lương tháng như Kim Ngọc,
nhưng khi tác giả khoác cho những người đấu tranh đòi quyền con người
Việt Nam phải được tôn trọng bằng một loạt các chiếc áo “ngụy tạo” như:
“vi phạm pháp luật, chống đảng, chống nhà nước, đi ngược lại lợi ích
quốc gia, dân tộc” mà không lương thiện minh chứng được thì có xóa được
những cáo buộc từ bên ngoài không?
Nhưng nếu Việt Nam làm gì cũng “trong sáng” thì tại sao tại diễn đàn
Geneve ngày 05/02/2014, một loạt các nước phương Tây như Gia Nã Đại,
Pháp, Hòa Lan ((Netherlands) đã yêu cầu nhà nước Việt Nam “hủy bỏ hoặc Tu chính các Điều 79, 88 and 258 mơ hồ và bị lạm dụng nhằm hạn chế tự do của Bộ Luật hình sự”?
Đại diện Pháp viết: “Repeal or modify the Penal Code relating
to national security particularly Articles 79, 88 and 258, in order to
prevent those articles from being applied in an arbitrary manner to
impede freedom of opinion and expression, including on the Internet.”
Gia Nã Đại: “Amend the provisions concerning offences against
national security which could restrict freedom of expression, including
on the internet, particularly articles 79, 88 and 258 of the Penal Code,
to ensure its compliance with Viet Nam’s international obligations,
including the ICCPR” (Chú thích: International Covenant on Civil and Political Rights, Công ước Quốc tế về quyền Công dân và Chính trị)”
Một số nước khác, trong đó có Phần Lan (Finland), Hòa Lan (Netherlands)
và Tân Tây Lan (New Zealand) yêu cầu sửa lại hai Nghị định 72 và 174 đã
hạn chế và kiểm soát hoạt động của Truyền thông Xã hội và các Tổ chức
Phi Chính phủ.
Đặc biệt Norway thì nói rằng khi thi hành Điều 69 Hiến pháp thì phải bảo
đảm tuân thủ những cam kết mà Việt Nam đã ký trong (ICCPR,International Covenant on Civil and Political Rights-Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị)
(Norway: In its implementation of Constitution article 69, ensure compliance with its obligations under the ICCPR).
Điều 69 của Hiến pháp 2013 viết:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của
Nhà nước.
Sở dĩ Norway quan tâm đến nhiệm vụ của Quốc hội của Nhà nước CSVN vì
trong thực tế, Quốc hội này chưa bao giờ là “đại diện thật sử của dân”
để phục vụ quyền lợi của dân mà chỉ được lập ra, qua hình thức “đảng cử
dân bầu” để “luật hóa những quyết định của đảng”, như họ đã “luật hóa
Cương lĩnh đảng 2011” trong Hiến pháp 2013 để “hợp pháp hóa” quyền lãnh
đạo toàn diện “nhà nước và xã hội” như viết trong Điều 4.
Riêng trong lĩnh vực Tôn giáo, Gia Nã Đại (Canada) đã yêu cầu Việt Nam
bỏ bớt những tiêu chuẩn rắc rối trong việc đăng ký các hoạt động ôn hòa
của các Tổ chức Tôn giáo hợp pháp và không đăng ký để bảo đảm quyền tự
do tôn giáo và tín ngưỡng.
(Canada: Reduce administrative obstacles and registration
requirements applicable to peaceful religious activities by registered
and non-registered religious groups in order to guarantee freedom of
religion or belief.)
Đại biểu Pháp nói: “Nước Pháp bày tỏ mối quan tâm lớn đến việc
tái thi hành những án tử hình và rất nhiều bản án tử hình trong thời
gian gần đây. Chúng tôi khuyến cáo VN tạm đình chỉ thi hành và khởi
xướng một cuộc thảo luận quốc gia về án tử hình.
Nước Pháp cũng rất quan tâm đến những hạn chế quyền tự do tư tưởng và
ngôn luận ở VN và những áp lực đối với những người tranh đấu cho nhân
quyền ở VN.”
Trong khi đó Đại diện Thụy Sỹ phát biểu: “Thụy Sĩ hoan nghênh
VN đã ký Quy Ước chống tra tấn và những hình phạt dã man, phi nhân, làm
mất phẩm giá con người và khuyến khích việc phê chuẩn Quy Ước trong một
thời gian ngắn.
Thụy Sĩ kêu gọi chính quyền VN giảm bớt danh sách những tội phạm có
thể bị án tử hình, đặc biệt là những tội phạm kinh tế, hay liên quan tới
ma túy và nghiên cứu việc đình chỉ thi hành những án lệnh trên.
Thụy Sĩ quan tâm tới tình trạng liên hệ tới tự do ngôn luận, quyền
hội họp ôn hòa, quyền lập hội và khuyến cáo chính quyền VN chú trọng ý
kiến của nhóm nghiên cứu (thuộc Liên Hiệp Quốc) về việc trả tự do cho
khoảng 30 người bị giam giữ một cách võ đoán từ phiên họp Kiểm Điểm
Thường Kỳ trước.
Đề bảo vệ quyền của của những người bị tạm giam, Thụy Sĩ khuyến cáo
chính phủ VN tôn trọng quyền được thăm viếng của gia đình và quyền được
hỗ trợ pháp lý, đặc biệt là trong giai đoạn điều tra, thẩm vấn của cơ
quan an ninh.”
Nước Đức đòi Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức những người bị bắt tùy
tiện và phải bồi thường cho họ như yêu cầu của Khối công tác về giam
giữ tùy tiện.
(Germany: Immediately release all prisoners held in arbitrary
detention and recompense them as requested by the Working Group on
Arbitrary Detention.)
Nước Áo đòi hỏi Việt Nam công bố danh sách tất cả các trại giam, kể cả
những trung tâm giam giữ người cai nghiện do các cơ quan cảnh sát, quân
đội và Bộ Lao Động quản lý. Áo cũng muốn biết số người đang giam giữ là
bao nhiêu và họ đang làm những công việc gì?
(Austria: Provide public information on the number of
detention camps, including administrative detention centres for drug
treatment set up by the police, the military and the Ministry of Labour,
on the number of persons detained therein; as well as on all forms of
work in which detainees are involved.)
Lý do nước Áo muốn biết vì chương trình cai nghiện của Việt Nam không
thành công. Ngược lại tình trạng bắt con nghiện phải lao động như nô lệ
đã bị Liên Hiệp Quốc phát giác cách nay vài năm. Số con nghiện được lành
bệnh thì ít mà số tái nghiện, có nơi đến ngót 100% đang là một hiểm họa
cho xã hội Việt Nam.
Những yêu cầu và khuyến nghị đặc trưng nêu trên và những đề nghị khác
của Hội đồng Nhân quyền từ ngày 05 đến 07/02/2014 tại Geneve cho thấy
Thế giới đã biết rất rõ những điều Việt Nam nói không thật trong Báo cáo
đệ trình tại Chu kỳ II của “cơ chế kiểm định kỳ phổ quát” (UPR, The
Universal Periodic Review).
Việt Nam sẽ phải phúc đáp những khuyến nghị này, chậm nhất vào Kỳ họp thứ 26 của Hội đồng trong Tháng 6/2014.
Tại kỳ kiểm điểm thứ nhất năm 2009, Việt Nam đã nhận được 123 khuyến nghị nhưng Hà Nội chỉ nhận thi hành 96 đề nghị.
NGOẠI GIAO VIỆT NAM NÓI RÊU RAO
Những lời tuyên bố và khuyến nghị của Hội đồng Nhân quyền đã rõ như ban
ngày. Không có cuộc tranh luận nào giữa các nước tham dự với Báo cáo
viên Việt Nam do Thứ trường Ngoại giao Hà Kim Ngọc dẫn đầu. Cũng không
có bất cứ cuộc biểu quyết nào về Báo cáo của Việt Nam.
Vậy mà vào ngày 08/02/2014, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phổ biến cho các báo, đài của nhà nước một bản tin viết như sau:
“Chiều ngày 07/2/2014, phiên họp của Nhóm làm việc về UPR của Hội
đồng Nhân quyền Liên hợp quốc tại Geneva đã thông qua Báo cáo Rà soát
Định kỳ Phổ quát (UPR) của Việt Nam.
Thay mặt Nhóm Troika, gồm đại diện của Ba nước Costa Rica, Kenya và
Kazakstan phụ trách Báo cáo UPR của Việt Nam, ông Christian Guillermet,
Phó trưởng Phái đoàn Costa Rica, đã báo cáo với Nhóm làm việc về Báo cáo
của Việt Nam, cảm ơn sự phối hợp nhiệt tình, có trách nhiệm và hiệu quả
của Việt Nam và Ban Thư ký HĐNQ trong quá trình làm việc của Nhóm
Troika để hoàn thành Báo cáo.
Trưởng đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc, đã phát biểu
cảm ơn Nhóm Troika, Nhóm Làm việc về UPR và các nước đã hỗ trợ và đóng
góp cho quá trình UPR của Việt Nam; khẳng định Việt Nam đánh giá cao các
phát biểu, đóng góp và khuyến nghị tích cực và xây dựng của các nước
đối với Việt Nam trong phiên trình bày và đối thoại.
Trưởng đoàn ta nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ chế UPR, cho rằng cơ
chế này là cơ hội để các quốc gia rà soát lại tình hình thực hiện nhân
quyền của các nước, chia sẻ kinh nghiệm, tăng cường hiểu biết lẫn nhau,
thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực nhân quyền; đồng thời khẳng định các Bộ
ngành, cơ quan liên quan của Việt Nam sẽ xem xét kỹ lưỡng tất cả các
khuyến nghị được nêu tại phiên trình bày và đối thoại lần này. Việt Nam
sẽ chính thức thông báo với các nước về việc chấp nhận các khuyến nghị
tại Khóa họp thông qua các báo cáo UPR tại kỳ họp thứ 26 của Hội đồng
Nhân quyền, dự kiến vào tháng 6 năm 2014.”
Cùng ngày (08/02/2014) Báo Quân đội Nhân dân cũng “tự viết” thế này:
“Hội đồng Nhân quyền đánh giá cao báo cáo kiểm điểm định kỳ phổ quát của Việt Nam
Kiểm điểm định kỳ phổ quát (Universal Periodic Review - UPR) là một
quy trình đánh giá định kỳ (4 năm một lần) về tình hình nhân quyền đối
với tất cả các thành viên của Liên hợp quốc (hiện nay có 193 nước). Có
thể nói, quy trình UPR là một sáng kiến của Hội đồng Nhân quyền, so với
Ủy ban Nhân quyền trước đây - đó là quy trình đánh giá dựa trên nguyên
tắc đối xử bình đẳng với tất cả các quốc gia thành viên của Liên hợp
quốc (LHQ). Mục đích cuối cùng của UPR là chia sẻ kinh nghiệm, cải thiện
tình trạng nhân quyền ở mỗi quốc gia và với cộng đồng quốc tế. Quy
trình UPR còn nhằm mục đích hỗ trợ về chuyên môn, nâng cao khả năng giải
quyết một cách hiệu quả những vấn đề nhân quyền của mình….
...Sau phần trình bày ngắn gọn của Trưởng đoàn Việt Nam, đã diễn ra
cuộc đối thoại cởi mở, thẳng thắn giữa các đại biểu Hội đồng Nhân quyền,
đại biểu các quốc gia có mặt tại hội nghị với đoàn Việt Nam.
Trước hết, các đại biểu tham gia hội nghị đã đánh giá cao Việt Nam
trong việc chuẩn bị Báo cáo. Việt Nam đã thực hiện một cách nghiêm chỉnh
các khuyến nghị từ Hội nghị kiểm điểm lần thứ nhất (năm 2009); việc
soạn thảo Báo cáo được thực hiện bởi Nhóm công tác liên ngành gồm các cơ
quan thuộc Chính phủ và Quốc hội liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ,
thực hiện và thúc đẩy các quyền con người. Trong thời gian chuẩn bị Báo
cáo nhiều cuộc hội thảo, hội nghị, nhiều công trình nghiên cứu đã được
triển khai ở các cấp, các ngành nhằm xác định những nội dung chủ yếu,
những lĩnh vực ưu tiên,… trong đó có các khuyến nghị mà cộng đồng quốc
tế đã lưu ý trong Hội nghị Báo cáo lần đầu. Không ít ý kiến đã đề cập
tới trọng trách của Việt Nam với tư cách là thành viên của Hội đồng Nhân
quyền LHQ trong nhiệm kỳ, mở đầu từ năm 2014.
Nhiều ý kiến cho rằng, Báo cáo của Việt Nam đã cung cấp đầy đủ các
thông tin “đa chiều”; đánh giá cao Việt Nam đã thu hút sự tham gia đóng
góp của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp và của người dân; đã tổ chức tham vấn, đối thoại nghiêm túc giữa
Chính phủ với nhiều bên liên quan trong việc bảo đảm quyền con người ở
Việt Nam”… Điều này thể hiện rõ sự nghiêm túc của Việt Nam đối với Cơ
chế kiểm điểm định kỳ phổ quát-UPR.
Thứ hai, về những thành quả bảo đảm quyền con người, các đại biểu
đánh giá tích cực việc Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc 96 khuyến nghị
tại Hội nghị kiểm điểm định kỳ năm 2009 trong đó có việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật, đặc biệt là đưa quyền con người vào Chương II, Hiến
pháp mới (2013). Có ý kiến đánh giá cao Việt Nam đã ký “Công ước chống
tra tấn” và mong muốn Việt Nam sớm phê chuẩn Công ước này. Nhiều đại
diện ở các nước đang phát triển đánh giá cao thành quả của Việt Nam
trong việc xóa đói, giảm nghèo, phát triển bền vững và quan tâm đến các
nhóm dễ bị tổn thương; về đích sớm nhiều Mục tiêu thiên niên kỷ.
Thứ ba, trên lĩnh vực hợp tác quốc tế, nhiều đại biểu đánh giá cao
Việt Nam trong việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế, trở thành thành viên của
Hội đồng Nhân quyền LHQ và sẵn sàng đối thoại nhân quyền thường niên với
các đối tác, đóng góp tích cực vào cơ chế nhân quyền ASEAN...
Mặc dù đã đánh giá tích cực đối với Báo cáo của Việt Nam, song các
đại biểu Hội đồng Nhân quyền và đại biểu một số quốc gia tại hội nghị đã
nêu nhiều khuyến nghị. Trong đó có những nội dung cơ bản sau: Việt Nam
cần nỗ lực hơn nữa trong việc cải cách tư pháp, pháp luật; thúc đẩy
quyền tự do ngôn luận, báo chí; tự do tôn giáo; mời thêm các Thủ tục Đặc
biệt của Hội đồng Nhân quyền LHQ tới Việt Nam và tăng cường hợp tác với
các cơ chế nhân quyền của LHQ, trong đó có các Cơ quan Công ước. Trưởng
đoàn đại biểu Việt Nam đã cảm ơn và ghi nhận những khuyến nghị này.
Nhiều nước cũng khuyến nghị Việt Nam tăng cường chia sẻ kinh nghiệm
đổi mới, đảm bảo quyền của các nhóm yếu thế (như trẻ em, phụ nữ, người
khuyết tật, người cao tuổi, dân tộc thiểu số), đảm bảo an sinh xã hội,
tạo việc làm… trong điều kiện kinh tế khó khăn.”
Trong tất cả các Văn bản của kỳ họp ở Geneve từ ngày 05 đến 07/02/2014,
Hội đồng Nhân quyền và Văn phòng Báo chí của Hội đồng không hề phổ biến
bất kỳ một văn bản nào được gọi là “đánh giá cáo” hay “thông qua” như Bộ
Ngoại giao “tự diễn” và báo Quân đội Nhân dân “tự viết” để khoe thành
tích.
Còn chuyện được nói là “Nhiều nước cũng khuyến nghị Việt Nam tăng cường
chia sẻ kinh nghiệm” từ “đổi mới” cho đến “tạo việc làm... trong điều
kiện kinh tề khó khăn” thì cũng chi thấy viết trên báo Quân đội Nhân dân
mà thôi!
(02/014)
No comments:
Post a Comment