Sự kiện Bình Dương – Vũng Áng cho thấy, khi gậy gộc đã ở trong
tay đám đông, mọi giá trị đều trở nên vô nghĩa[1].Tuy nhiên, còn “vô
nghĩa” hơn nếu sự kiện “Bình Dương – Vũng Áng” được sử dụng như những
con ngoáo ộp để dọa dân chúng nhằm củng cố độc tài, toàn trị.
Một Thế Lực Bành Trướng & Một Nền Kinh Tế
Trong số 315 nhà đầu tư chịu thiệt hại trong vụ Bình Dương, có 12
công ty bị cháy lớn (nhiều nhà xưởng bị cháy rụi), 3 công ty bị cháy
nhỏ, 33 công ty bị trộm cướp tài sản, 196 nhà xưởng bị đập phá, 241 văn
phòng bị hư hại, có nhiều văn phòng bị đốt sạch, phá sạch. Con số thiệt
hại chưa được quy thành tiền nhưng cho dù nó lớn tới mức nào, đó cũng
chỉ là những tổn thất có khả năng đo, đếm được.
Chưa biết bao giờ các nhà máy trong 29 khu công nghiệp ở Bình Dương
mới có thể trở lại hoạt động bình thường. Điều này, ảnh hưởng trực tiếp
ngay tới hơn hai trăm ngàn lao động Việt Nam. Thiệt hại vì sự sút giảm
uy tín của môi trường đầu tư còn khó định lượng hơn.
Trong mấy năm gần đây, Trung Quốc là thị trường có mức độ phát triển
tốt nhất của ngành hàng không Việt Nam. Trước 13-5-2014, trung bình mỗi
ngày có gần 20 chuyến bay Việt – Trung. Nay con số đó đang có nguy cơ
bằng không. Thiệt hại cho Hàng không Việt Nam có thể lên đến hàng nghìn
tỷ.
Chủ một resorts thường xuyên có 30% khách đến từ Trung Quốc ở Hội An
cho biết, tất cả khách đặt phòng người Trung Quốc đều đã “cancelled”.
Hàng nghìn biệt thự trên bãi biển Đà Nẵng vốn lâu nay sống nhờ khách
Trung Quốc nay đang lần lượt bị trả lại….
Những phản ứng vừa qua cho thấy, người Việt Nam chỉ mới nhạy cảm
trước một Trung Quốc bành trướng, trong khi, Trung Quốc còn là một nền
kinh tế lớn.
Yếu Tố Bên Trong
Người Việt có vẻ như đã xích lại gần nhau trong những ngày vừa qua.
Dân chúng dễ dàng bỏ qua những chính sách đã đưa đất nước lún sâu. Một
vài nhà lãnh đạo bỗng dưng sáng lên. Nhưng, chúng ta sẽ làm gì nếu giàn
khoan HD 981 vẫn nằm lì ngoài biển đông. Chúng ta sẽ làm gì nếu tất cả
những nguyên nhân làm cho đất nước thất thế, tụt hậu vẫn tiếp tục phát
huy; những kẻ bảo thủ, trì trệ vẫn bình chân và bọn tham nhũng vẫn tiếp
tục ngự trị.
Một quốcgia không thể giữ yên bờ cõi nếu không đoàn kết. Nhưng nếu
một quốc gia chỉ thực sự đứng bên nhau khi “tổ quốc bị xâm lăng” thì bi
kịch còn lớn hơn. Nếu không sớm tìm ra một yếu tố bên trong để đoàn kết
quốc gia, chủ nghĩa dân tộc cực đoan sẽ luôn dễ dàng bị các bên lợi dụng
(cả Chính phủ và những người được coi là “dân chủ”).
Cái giá mà dân tộc Việt Nam phải trả cho cuộc chiến kéo dài mười năm,
1979-1989, là không chỉ bằng sự kiệt quệ nội lực, sự cô lập trên trường
quốc tế mà còn bằng xương, máu của hàng triệu thanh niên. Chúng ta cần
một chính phủ ứng xử với Trung Quốc bằng tư thế của một quốc gia có chủ
quyền chứ không phải một chính phủ, lúc thì quá lệ thuộc, lúc lại đẩy
dân ra chỗ hòn tên mũi đạn.
Sáng 1-1-2014, khi nói chuyện với chúng tôi, ông Trần Việt Phương,
người giúp việc của nhiều nhà lãnh đạo Hà Nội – từng sống và làm việc
bên cạnh Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh từ 1949 – 1969 – nói: Trong lịch
sử nghìn năm giữ nước, chưa có thời nào Việt Nam mất cảnh giác và chịu
lệ thuộc vào Trung Quốc như ‘triều đại’ ngày nay.
Sở dĩ có điều đó là vì
chúng ta đã nhiều lúc ứng xử với tư thế một ông em ngoan, ngây thơ tin
các ông anh cũng vì tinh thần quốc tế vô sản. Theo ông Trần Việt Phương,
thời còn Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã từng ở trong một
nền thực dân kém văn minh hơn nền thực dân trước kia.
Trong những ngày giàn khoan HD 981 đang ở trong vùng biển Hoàng Sa
nhiều người Việt bàn đến chuyện “thoát Trung”. Nhưng theo tôi trước khi
“thoát Trung”, người Việt phải thoát ra khỏi chính vấn đề đang ở trong
tay người Việt.
Năm 1974, nếu người Việt chúng ta ở chung một chiến hào, chắc chắn
Hoàng Sa không thể rơi vào tay Trung Quốc. Chắc chắn không có sự kiện HD
981. Chắc chắn Trung Quốc không thể khoan vào những nơi người Việt Nam
rất dễ bị tổn thương.
Theo tôi, điều cấp bách nhất mà chúng ta, bao gồm cả những người cầm
quyền, phải làm là phải thoát hoàn toàn ra khỏi ý thức hệ, điều khiến
cho Chính quyền có những lúc “ngây thơ” tin vào “mười sáu chữ vàng”;
điều đã khiến cho lãnh thổ quốc gia bị hơn hai mươi năm chia cắt; điều
khiến cho người Việt Nam, gần 40 năm sau chiến tranh, vẫn không thể nào
ngồi bàn với nhau hòa giải.
Giai Cấp Trai Làng
Nói chuyện với hàng chục chủ doanh nghiệp và công nhân ở Bình Dương,
chúng tôi nhận thấy cách lôi kéo công nhân biểu tình hôm 13-5-2014 gần
giống như cách mà các cuộc đình công vẫn diễn ra ở đây. Liên đoàn Lao
động không bao giờ có vai trò nào ngoài việc buộc các doanh nghiệp phải
trả công đoàn phí hàng tháng một khoản tiền bằng 2% quỹ lương. Đứng sau
các cuộc đình công thường là một bọn người giấu mặt.
Bọn người tương tự đã xuất hiện vào ngày 13-5-2014, xông vào các nhà
máy, yêu cầu giới chủ phải cho công nhân nghỉ để đi “biểu tình chống
Trung Quốc”. Đề nghị này ngay lập tức được công nhân hoan nghênh. Một số
bỏ về nhà nghỉ ngơi, vui vì được “hưởng nguyên lương”. Một số khác đi
theo những người cầm đầu cuộc “biểu tình”. Những công nhân vô tội này
không ngờ rằng, họ đang bị kéo vào một âm mưu nguy hiểm.
Người lao động ở Bình Dương mà những người Marxists thích gọi là
“giai cấp công nhân”, thực chất vẫn là những nông dân. Trong số 235.800
lao động làm việc trong 29 khu công nghiệp ở Bình Dương chỉ có 9,8% là
người địa phương. Họ phải rời bỏ quê hương vì chính sách đất đai và
chính sách công nghiệp hóa sai lầm.
Chính sách đất đai không cho phép tích tụ những mảnh ruộng manh mún
để hình thành các trang trại lớn, nơi có thể hiện đại hóa sản xuất nông
nghiệp và phát triển công nghiệp chế biến nông sản, nơi các trai làng có
thể ở tại chỗ mà ly nông thay vì phải ly hương.
Họ bị dồn vào một nơi cách xa lũy tre, vẫn chất phác nông dân nhưng
bị lẫn trong bộ đồng phục, không danh tính, không làng xóm. Họ ngây thơ
đi theo đoàn “biểu tình chống Trung Quốc”, bị cuốn trong một cơn kích
động, nghĩ là mọi hành động đập phá, lấy cắp của họ sẽ bị lẫn vào đám
đông.
“Ý Thức Hệ”
Hôm 29-4-2014, Cựu Bộ trưởng Trương Đình Tuyển đã được hoan nghênh
khi ông phát biểu công khai ở Diễn đàn kinh tế mùa xuân Hạ Long: “Đã đến
lúc phải thừa nhận xã hội dân sự”. Nhưng, cũng ông Trương Đình Tuyển
vào ngày 17-4-2014, khi nói chuyện nội bộ về TPP với các đại biểu quốc
hội ở Văn phòng Quốc hội phía Nam lại cho rằng, phá bỏ thế độc quyền của
Liên đoàn lao động Việt Nam (cho công nhân lập các công đoàn độc lập),
là điều không thể thương nghị.
Hy vọng ông Trương Đình Tuyển, người đang cố vấn cho Chính phủ về đàm
phán TPP, tìm hiểu vai trò Liên đoàn lao động trong các vụ đình công,
bạo động, ở Bình Dương, để thấy, chỉ vì ngăn cản công nhân hình thành
các tổ chức đại diện cho mình (điều kiện mà TPP đòi), khi lâm sự, chủ
doanh nghiệp cũng như Đảng, Nhà nước đã không có ai để mà “thương nghị”.
Công nhân nhanh chóng bị cuốn vào những đám đông không còn khả năng
kiểm soát.
Cũng hôm 17-4-2014, ông Trương Đình Tuyển giải thích, Liên đoàn lao
động là tổ chức của Đảng, giữ vị trí độc quyền của nó là giữ một đặc
trưng của chế độ. Tiền thuế của dân đang được chi để nuôi các đoàn thể
quốc doanh. Điều này rất dễ ru ngủ Chế độ khi trong ấm, ngoài êm. Nhưng,
khi lâm trận thì mới thấy những tổ chức rình rang tốn kém đó nhanh
chóng trở nên vô dụng.
Cựu Phó thủ tướng Trần Phương, một nhà lý luận gần gũi với Tổng bí
thư Lê Duẩn thừa nhận: “Cho đến trước khi Liên Xô sụp đổ, đầu óc chúng
tôi vẫn bị cầm tù trong sự giáo điều của chủ nghĩa Marx – Lenin”. Thật
khó để biết một cách chắc chắn, thế hệ lãnh đạo hiện nay đã để cho đầu
óc của mình ra khỏi “nhà tù ý thức hệ” như thế hệ Trần Phương hay chưa.
Một người được coi là cởi mở như ông Tuyển, mà vẫn tư duy như vậy thì
liệu có ai thực sự đã thoát khỏi “chiếc còng tư tưởng”.
“Mồi Lửa Đã Ở Dưới Đống Củi”
Nếu có một xã hội dân sự trưởng thành, công nhân có các tổ chức đại
diện cho mình, chắc chắn sẽ không dễ bị kéo vào một đám đông như thế.
Nếu có một nhà nước pháp quyền (và có luật biểu tình), cảnh sát tự tin
vào tính chính danh của quyền lực công, chắc chắn đã có hành động thích
hợp trước khi đám đông phạm tội.
Không chỉ gây ra thiệt hại, phải coi sự kiện “Vũng Áng – Bình Dương”
là những cảnh báo sớm. Một chế độ toàn trị rõ ràng đã không có khả năng
gìn giữ “ổn định chính trị” như nhiều người vẫn tưởng lầm. Mồi lửa đã ở
dưới đống củi.
Đi đến tự do chính trị mà không có lộ trình thích hợp thì rất dễ gây
rối loạn. Nhưng khước từ dân chủ hóa thì sự sụp đổ là chắc chắn xảy ra.
Khi đó, bạo loạn sẽ không còn ở mức độ “Vũng Áng – Bình Dương” như chúng
ta vừa chứng kiến.
Việt Nam đã rất cô độc trong xung đột Biển Đông không chỉ vì không có
ai thực sự là đồng minh, mà còn, thay vì hòa vào xu thế của thời đại
văn minh, Hà Nội lại tự xích mình trong nhóm những quốc gia bị “loài
người (thực sự) tiến bộ” đặt sang bên lề thương hại. Cho dù không thể có
ai là “bạn vĩnh viễn”, nhưng nếu Việt Nam có một chế độ chính trị tiến
bộ, bên trong tôn trọng dân chúng, bên ngoài chỉ “trao đổi vàng” với
những nhà nước dân chủ văn minh, chúng ta chắc chắn sẽ có rất nhiều bạn
đồng hành.
Trong những ngày này, tôi tin là có hàng triệu người Việt Nam tuy
không xuống đường biểu tình nhưng vẫn đang nung nấu trong mình lòng yêu
nước. Nhưng tôi tin, không ai, không riêng một đảng phái nào, đứng riêng
lẻ mà có thể tìm được cho Việt Nam một con đường đi đến dân chủ, văn
minh mà tránh được những tháng năm tao loạn.
Mỗi chúng ta phải bắt đầu làm gì đó trong nỗ lực của mình, để Đảng
cầm quyền ngồi lại với nhân dân, cùng đối thoại để tìm ra lối thoát. Để
đất nước rơi vào nông nỗi này, chúng ta có thể đổ lỗi cho những người
cộng sản. Nhưng, nếu cứ để đất nước tiếp tục tình trạng này, mỗi chúng
ta đều phải cộng đồng trách nhiệm.
Không ai thách thức quyền lực của những người cộng sản nếu như quyền
lực đó không đặt chế độ lên trên sự phát triển bền vững của quốc gia.
Không ai có thể ngồi mãi trên đỉnh cao quyền lực,
Nếu anh thiết lập trên
đầu dân chúng một phương thức cai trị thực dân, sẽ có ngày anh trở
thành nô lệ trong nền thực dân do chính anh tạo lập.
Đừng cố gắng giữ nền độc tài cho tới ngày con cháu có thể thừa kế
ngai vàng. Hãy thiết lập một thể chế mà nếu con cái quý vị xứng đáng,
nhân dân sẽ trao “ngai vàng” cho chúng.
[1] Đám đông không còn phần biệt Hàn Quốc, Nhật hay Đài Loan, trong
số 315 công ty có nhà xưởng bị đập phá ở Bình Dương chiều 13 rạng sáng
14-5-2014, chỉ có 12 công ty của Trung Quốc và 5 liên doanh có đối tác
là TrungQuốc (không tính Hong Kong).
© Osin Huy Đức
(danchimviet)
No comments:
Post a Comment