Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về
phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó
khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước.
Địa lý là điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn
vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở
châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều
hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất
đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu
người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ.
Nhưng sự chuyển giao
quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa
Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng
vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu
sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng,
những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết
định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ
trong khu vực này.
Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011
rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một
trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy,
ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới
này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy
đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên
tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ
trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông,
chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự
minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.”
Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển
khai tới Darwin , Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của
Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết
mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một
nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ
giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là
cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời
hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này
Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu
người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý
định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ
có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam . (Người Philippines đã không
khôn ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên
mất hậu quả về lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm
ơn quay lại.”) Người Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong
khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa,
vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông, người Mỹ có thể theo dõi
hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi
thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm
mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân bằng quyền lực
có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ
trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có
thể phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và
các căn cứ quân sự.
Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ
trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia
nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã
từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu
đựng những gì họ phải chịu đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể
không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện
thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái
Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối
ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm hơn đến những gì người Trung
Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế
lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là không để cho Trung Quốc
hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người
Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có
thể diễn ra.
Ví dụ như Việt Nam , là một trong những
quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc.
Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả
đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc
và thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với
người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không
phải là bài học mà người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã
được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết
lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.
Tôi cũng cảm thấy rất tiếc rằng sự thay
đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường
quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm
lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt
Nam . Họ đưa quân đến bán đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc
hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các cuộc chiến tranh đó là chống lại
chủ nghĩa cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ nghĩa cộng sản lan tràn trên thế
giới. Nếu như người Mỹ không can thiệp và tham chiến ở Việt Nam lâu dài
như họ đã làm, ý chí chống cộng ở các nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm
sút, và Đông Nam Á có thể đã sụp đổ như một ván cờ domino dưới làn sóng
đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt Nam có thời gian để xây dựng lực
lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không thành công, nhưng khoảng
thời gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành động với nhau và tạo
dựng nền tảng cho sự phát triển của ASEAN.
Singapore khá thoải mái với sự hiện diện
của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng
như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng
với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này
làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho
rằng làm sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá
là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng
từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực
thô và còn non trẻ.
Trong cục diện đang thay đổi này, chiến
lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy
tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần
còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với
người Mỹ. Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực
quần đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở
Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ
với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ
kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ. Người Trung
Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các
quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến
đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang
làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào
bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập
trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.
Chúng ta còn liên kết với phần còn lại
của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị
và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai
trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học
tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy
đau đớn và khó khăn. Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một
nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho
việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải
bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho
thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong
những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore .
Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá
thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một
sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế
rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và
hiểu ngôn ngữ của họ.
Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn,
Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho
học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao
thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì
thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể
cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp
của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế
giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng –
không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người
Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng
Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét
chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong
tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi
mẫu giáo cho đến bậc đại học.
Cuộc cạnh tranh cuối cùng
Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái.
Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và
lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính
nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa
Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống
còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong
những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì
trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức.
Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí
dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một
lần nữa.
Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế
năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra
cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo –
tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới
sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft,
Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác.
Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ
không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà
người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có
sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu những người theo thuyết suy
thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng
đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu
Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn
chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một
nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong
một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ
sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng
các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy
thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có
thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh
hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP,
nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến
mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và
khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc
liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó
có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin vào thành công dài hạn của Hoa Kỳ
Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút
đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư
đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở
nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và
thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của
mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất
men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở
Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không
có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu.
Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa,
người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể
dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng
để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ
và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn
mới.
Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ
phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp
với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh
nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta
không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ
sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và
kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân
được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy
nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ —
lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người
Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng
hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở
về Singapore . Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì
nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc
làm hơn.
Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém
hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa
khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ
nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà
bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất
lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm
và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm
(pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành
thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên
hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là
một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và
làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành
những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền
bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử
trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến
Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không
cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ,
nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm,
chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực
mềm thì Trung Quốc không thể thắng.
Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh
tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả
nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có
Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và
Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau,
không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ,
James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng
thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New
York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là
bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư
tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang
những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về
quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.
Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các
trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được.
Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York . Nếu bạn có
tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự
đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra
những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn
một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh
thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi
người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân
theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh
với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện
đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại
học Cambridge ). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng
bộ hơn.
Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập
niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền
kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử,
thép, hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công
nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người
lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các
công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành
các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong
ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng
những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm
biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có
công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh
nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của
mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều
chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả
lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung
Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà
của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà
bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản
quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là
nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật
sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.
Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc
này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh
tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ
gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một
cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái
yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là
chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những
xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York , bạn cũng có thể dễ
dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm
áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà
kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu
nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.
Điều này có chấp nhận được không? Tôi
không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một
số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng
mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu
bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh
được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và
không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn
một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai,
bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.
Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn
vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng
mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí
xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một
giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì
vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một
xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước
Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá
vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều
giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên
thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2
thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và
những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem
thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí
thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao
động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã
hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm
giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên
các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có
tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để
giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.
Lý Quang Diệu
Thứ Sáu, ngày 30 tháng 5 năm 2014
Dịch: Nguyễn Việt Vân Anh
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Dịch: Nguyễn Việt Vân Anh
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
No comments:
Post a Comment