Trong
đại hội nhà văn, nhà báo tại Việt Nam vào tháng 8 năm 2010, nhà văn
Trần Mạnh Hảo đã đọc một bản tham luận gây sửng sốt cho toàn thể cử tọa.
Nhiều nhà văn, nhà báo muốn trừng trị ông, có kẻ muốn cúp tiếng nói
công chính của ông bằng cách giật “micro” trong tay ông, trong khi ấy,
một số người có đầu óc cấp tiến lại coi việc ông làm là một hành động
anh hùng, đáng kính trọng. Một số khác thì im lặng, giữ thái độ trung
dung, cầu an, tránh né mọi xung đột cho dù họ đều nghĩ rằng những điều
ông nói đểu dựa trên sự thật.
Bản tham luận của ông nêu lên rất nhiều
điểm mang tính cách chiến đấu trong văn chương, nhưng thực tế, những tư
tưởng đó đã tấn công trực diện vào thành trì lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Ngoài việc tố cáo những việc làm mất nhân tính của giới lãnh đạo
đã đẩy đưa đất nước đến chỗ suy vi vì tham nhũng, vì việc giáo dục thé
hệ sau lỗi thời lạc hậu với bằng giả, học giả tràn lan, vì những hành vi
bán nước của giới lãnh đạo, nhà văn Trần Mạnh Hảo còn cho rằng lý
thuyết Các Mác ( , 1818 -1883) như một sản phẩm của tội ác nhân loại.
Trong cuộc nói chuyện khác của ông, Nhà
văn Trần Mạnh Hảo đã đưa ra một nhận xét mới: Học thuyết Mác Lê không
phải duy tâm, không phải duy vật, mà là học thuyết Duy Ác, hàm ý là mọi
người trên thế giới này đều bị cái Ác cai trị. Với Trần Mạnh Hảo, Các
Mác đã bị ảnh hưởng quá nặng bởi lý thuyết “sống còn” của nhà nghiên cứu
Darkwin cho nên đã cho rắng vạn vật phải cạnh tranh, phải giêt lẫn nhau
để sinh tồn. Vì thế mà chủ nghĩa Các Mác muốn dùng bạo lực để tiêu diệt
đối lập, hầu tạo ra một thế giới mới, thế giới hoang tưởng Thiên Đàng
Cộng Sản.
Thật thế, chủ nghĩa Các Mác là một chủ
nghĩa hoang tưởng, bệnh hoạn, muốn dùng bạo lực sắt máu để giết người,
tiêu diệt phần lớn nhân loại nhượng cho một nhóm nhỏ cầm quyền tha hồ
cai trị.
Đã 125 năm, kể từ khi Các Mác chết, lý
thuyết của ông đã được phân tích, phê bình, và được cho vào chương trình
học của hầu hết các đại học trên thế giới như một triết lý. Một số
chính trị gia quá khích đã tôn thờ lý thuyết của ông như một loại kinh
thánh. Một số khác đã áp dụng một vài quan điểm của ông vào thực tế xã
hội với nhiều sửa đổi. Lê Nin ( ,
1870- 1921), người đã mượn những ý tưởng căn bản của Các Mác về một
cuộc thay đổi xã hội toàn diện để biến thành môt tập hợp lý thuyết
Mác-Lê (Marxism-Leninism), trong đó Bạo Lực Cách Mạng là đòi hỏi tiên
quyết cho mọi hành vi chính trị hầu khuynh đảo tất cả các chế độ chính
trị trên thế giới, nhằm tiếm đoạt quyền lực cho một đảng cai trị. Sau
đó, Hồ Chí Minh, một đệ tử kiên định của cả Lê Nin và Mao Trạch Đông,
dưới sự “chỉ đạo xuyên suốt” của hai người Thầy vĩ đại, đã mang mớ lý
thuyết hổ lốn này về quê nhà và cùng với vũ khí và phương tiện do hai
“mẫu quốc” này cung cấp, tìm cách cướp chính quyền vào trong tay mình.
Trong suốt thời gian chiến tranh, để ghi nhớ công ơn của hai bậc trưởng
thượng kính yêu, Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị ở chỗ nào cũng treo ba tấm
hình của Lê Nin, Các Mác và “Bác”. Đôi khi, lại chỉ treo hình Các Mác và
Ăng Ghen ( ,
1820-1895), người đã cùng soạn thảo chung Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản (The
Communist Manifesto) với Các Mác vào năm 1848. Thường thì hai tấm hình
của các bậc “Sư Tổ” đó treo ngang nhau và bên trên hình của “Bác”. Chỉ
thảng hoặc, có dư chỗ, “Bác” mới được treo ngang hàng với “Sư Tổ” của
mình. Từ khi xuống đường làm “Kách Mệnh”,(1) Hồ Chí Minh vẫn luôn tôn
kính Các Mác và Lê Nin còn hơn tổ tiên Việt Nam của mình, vì thật sự, Hồ
Chí Minh không có lòng tôn trọng tổ tiên Việt Nam, vẫn luôn coi Cộng
Sản Quốc Tế mới chính là gia tộc của mình.
Trong bài vịnh Đền Kiếp Bạc
thờ Trần Hưng Đạo, Hồ Chí Minh đã tự đắc với việc làm của mình:
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt “năm châu” đến đại đồng!
Tôi dắt “năm châu” đến đại đồng!
Thực tế, với trình độ học vấn của ông Hồ,
với sự “đạo thơ” của người khác làm thơ của mình(2), với sự dàn dựng
nhờ người viết tiểu sử ca tụng chính mình (3), và những câu vè bình dân
do Hồ Chí Minh viết ra, người ta có thể đoán ông Hồ chẳng hiểu gì về
những ý niệm trong cuốn Tư Bản Luận đâu.
Ông Hồ chỉ có thể biết rằng Các
Mác kêu gọi phải “đấu tranh giai cấp” (class struggle) để dựng lại toàn
diện cấu trúc xã hội, và khai thác thêm thành “Bạo Lực Cách Mạng” và
“Chuyên chính vô sản” (4) mà thôi. Còn những lý thuyết về “giá trị xử
dụng” (use value), “giá trị trao đổi” (exchange value), “lao động thặng
dư” (surplus labor) hay “lý thuyết lao động về giá trị” (labor theory of
value), chắc “Bác” không thích nhắc đến. Ngay chính hai nhóm chữ “chủ
nghĩa xã hội” và “xã hội chủ nghĩa” khác nhau thế nào, chưa chắc ông Hồ
đã có khả năng giải thích.
Và, nếu “Bác” mà không giải thích nổi, thì nói chi đến những đệ tử của “Bác”?
Điều phũ phàng là rất nhiều người mệnh
danh là “thức giả”, là “trí thức” cũng không nhận ra những thiếu sót và
sai lầm tệ hại trong mớ lý thuyết của Mác, mà vẫn lớn tiếng ca tụng Mác
như thần tiên, thánh sống.
Thực tế, Các Mác là một lý thuyết gia có rất nhiều sai lầm ngay từ căn bản, và thiếu sót rất nhiều về mặt thực tiễn xã hội.
1 – Các Mác là ai? Tên thật là ,
một kẻ bất đắc chí, tự tạo ra một lý thuyết có tính cách thuyết phục
với những người có trình độ lý luận dở dang, chưa đến nơi đến chốn,
những kẻ luôn có tinh thần nổi loạn, chống đối xã hội, hoặc những kẻ thí
mạng cho một cuộc phiêu lưu, “được thì được tất cả, mất thì chả mất cái
gì”.
Marx sinh năm 1818, tại Đức, chết năm
1883, vốn thuộc dòng gốc Do Thái (Jews), khá giả (5), cả họ hàng có
nhiều người làm “Rabbi”, là “Thầy Cả”, là người đức cao trọng vọng trong
Do Thái giáo. Ông cụ tên là Hirschel, nhưng sau thấy bị đời coi thường,
nên cậy cục xin đổi sang thành một người Đức yêu nước, ,
theo đạo Lutheran. Điều này chứng tỏ ông cụ Marx là người mất gốc, hám
danh, hám lợi, tư bản chủ nghĩa chứ không có “tinh thần cộng sản” gì cả.
Marx có nhiều anh chị em, nhưng một số chết sớm, còn mấy bà chị thì
không hợp tính, vì Marx độc tài từ nhỏ, khiến mấy chị em khiếp sợ, không
dám đứng gần. Bà mẹ tính tình khó chịu, nên Marx lờ luôn. Coi như Marx
là người không có gia đình họ hàng. Marx không được hưởng tiền bạc nên
ghét tư bản. Đúng ra, Marx ghét họ hàng chị em. Năm 1854, Marx viết thư
cho , tỏ vẻ thích chí:
“Phước thay cho ai không có gia đình!” (6). Câu này được các đệ tử nhặt
và quảng cáo cho tư tưởng “Vô gia đình”. Thực chất, Marx rất thích gia
đình, vợ và con, nên đẻ nhiều, dù cho nghèo rớt mùng tơi, sáu đứa cả
thẩy, nhưng nuôi nấng dở quá, nên chết mất ba. Marx rời quê hương để
tránh bị truy nã bởi chính quyền, từ Đức sang Pháp, bị đuổi, qua Bỉ, rồi
trở lại Pháp, về Đức, lại qua Anh, có thời gian qua Algeria, rồi trở về
Anh và chết ở đây. Cho tới chết, Marx vẫn là nguời “ngụ cư”, kẻ ở nhờ ở
đậu trong xã hội. Cho nên Mác nói là “Vô tổ quốc!” cũng rất đúng. Marx
chống đối tôn giáo, nói đúng ra là chống lại hệ thống đạo ở quê hương,
“Vô tôn giáo!”. Thế là mấy đệ tử ào ào cổ võ cho “Tam Vô”, nhưng không
đệ tử nào biết rằng, khi gần tới ngày đi gặp Thần Chết, Marx viết tờ
chúc thư cuối cùng, trong đó tỏ lòng ân hận với Thiên Chúa, và xin Chúa
tha tội cho những điều ông viết có tính cách vô luân lý (7) Mác chẳng
làm ăn gì, ngoài viết báo, viết sách, cứ chống đối hoài nên bị thất
nghiệp dài dài, bị chủ nhà đuổi, bị thiếu ăn, thiếu sưởi, phải cầu cứu
Engels, (một đại phú ông chuyên nghề làm bông gòn ở Anh), viết thư cho
Engels xin vài Pounds (Lbs) để trả tiền nhà. Engels lập tức gửi ngay cho
50 Lbs, dư xài. Nếu không có Engels, thì chắc cuốn Tư Bản Luận không
thể ra đời. Marx cũng làm bộ chê bai, chửi bới cách sống vô luân, sa
đọa, nhưng theo những người bạn của Marx, ông ta lại khoái xem những
cảnh chơi bời ái tình (8). Điều đau khổ cho Marx là dù ông ta cổ võ cho
lý thuyết Cộng Sản, nhưng những đồng chí Cộng sản của Marx để cho Marx
thiếu đói triền miên, không ai giúp đỡ, ngoài Engels!
2 – Các Mác là kẻ “cọp dê” lại ý tưởng của người khác, và biến thành của riêng mình.
Từ đầu thế kỷ 18, đã có nhiều lý thuyết gia, kinh tế gia nói về chủ nghĩa tư bản rồi. Những nhân vật nổi tiếng về kinh tế như , , Jean-Baptiste Say, và
đã viết nhiều về sản xuất, phân phối và trao đổi hàng hóa trong một nền
kinh tế tư bản dựa vào sự nghiên cứu về những nhà kinh tế cận đại nhất.
Ngoài ra còn và
nũa. Những nhân vật này đã để lại nhiều nghiên cứu giá trị. Mác chỉ lựa
các bài viết của người, rồi tập hợp thành một cuốn Tư Bản Luận của
mình. Theo sau Adam Smith, Mác đã phân biệt “giá trị xử dụng” của hàng
hóa và sự sai biệt giữa tiền vốn và tiền bán được thành tiền lời của
giới tư bản. Dựa vào những người đi trước, Mác, với sự hợp tác và giúp
đỡ về tài chánh của Ăng Ghen, đã cho ra đời nhiều tác phẩm gọi là giá
trị trong giới nghiên cứu lý luận thời đại đó, nhưng cũng chẳng được ai
quan tâm áp dụng, mãi cho đến vài chục năm sau khi chết, mới được Lê Nin
đem tô điểm và biến thành một vũ khí lợi hại tấn công nhân loại.
3 – Marx sai lầm trên quan điểm về liên
hệ giữa Công Nhân và Xã Hội. Xuyên qua tất cả các tài liệu, văn bản,
sách viết của Mars, có mấy vấn đề được đặt ra:
- Điều kiện vật chất và ý thức con người có sự liên hệ với nhau.
- Xã hội được phân chia thành từng giai cấp
- Sự đấu tranh giữa các giai cấp.
- Giới công nhân và giới nghèo khổ luôn là kẻ bị áp bức.
Trên hết là sự giải phóng giai cấp công
nhân qua một cuộc cách mạng sẽ đem lại tự do, no ấm cho mọi người, sẽ
đem lại công bằng xã hội, sẽ làm cho thế giới này hạnh phúc, tiến lên
một chủ nghĩa chung nhất: chủ nghĩa cộng sản.
Thực tế chứng minh, những cuộc cách mạng
vô sản đã nổ ra nhiều nơi trên thế giới, nhưng đến cuối thế kỷ 20, nhân
loại đã nhận thấy rằng những cuộc cách mạng đó chỉ đem lại đau thương,
tàn ác, hết bạo quyền này đến bạo quyền khác, mà không mang lại hạnh
phúc chút nào cho nhân loại, nhất là giới lao động, đã nghèo khổ còn bị
bóc lột hơn, nên dần dần các thành trì xã hội chủ nghĩa cộng sản đã đổ
nháo nhào. Hiện nay chỉ còn lại vài lãnh tụ cực kỳ lỳ lợm là Việt Nam,
Cu Ba, và Bắc Hàn, vẫn muốn lợi dụng mấy chữ chủ nghĩa xã hội để thâu
tóm quyền hành, áp đảo giới công nhân còn hơn ngày xưa. Trung Cộng thì
đã hé hé mở mở kinh tế (trừ chính trị), tạo điều kiện cho công nhân sung
túc hơn xưa, nhờ bỏ qua chế độ bao cấp, nhưng còn ở Việt Nam, sau nhiều
chục năm XHCN, giới công nhân, lao động vẫn là khối lượng khổng lồ,
khốn khổ khốn nạn, bị bóc lột, bị chủ lột truồng, đánh đập, bị chủ mạ
lị, bị thiếu ăn, bị giam lỏng. Nữ công nhân phải đi làm vợ thuê để sống
qua ngày. Có chút nhan sắc thì lo làm lẽ, làm nô lệ tình dục cho ngoại
quốc, hay bán thân ở mấy nước có nhận trao đổi công nhân. Marx là kẻ
thiếu trí thức, nên không tiên đoán được điều này.
4 – Marx sai lầm lớn khi cho là tiền lãi,
lời của Tư Bản là do sự bóc lột của giới chủ nhân qua giá trị thặng dư
biến thành tiền tệ. Marx cả quyết: “Không bóc lột, không thể làm giầu
được”. Điều này chỉ đúng cho thời điểm đó, thế kỷ 19 và đầu 20, khi kỹ
nghệ bắt đầu phát triển, những máy móc, phương tiện được sản xuất ào ạt,
xe lửa và đầu máy hơi nước là phương tiện di chuyển hàng loạt, nên cần
công nhân rất nhiều. Vì đa số những tay tư bản thời đó ở Âu châu còn
ngần ngại không dám nhào vào các phương tiện mới lạ, chỉ có một số mạo
hiểm làm giầu, nên lợi nhuận tập trung vào một số nhỏ. Cùng với sự suy
thoái của chế độ phong kiến, những quý tộc cũ còn tiền của chuyển hướng
sang kỹ nghệ. Với tài sản sẵn có, những người này tạo nên một hệ thống
tập quyền với hàng rào phe đảng bao che vững chắc, do đó, tự tung tự
tác, bóc lột công nhân tối đa để mong làm giầu thêm nữa. Nhưng đến cuối
thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, với giao thông dễ dàng hơn, với thông tin
nhiều nguồn hơn, liên hệ kinh tế – xã hội thay đổi. Nhiều nghiên cứu
thực tiễn chứng minh rằng lợi tức của Tư bản không nhất thiết phải là sự
bóc lột giá trị lao động của công nhân. Như trường hợp Bill Gates, ông
không làm chủ xí nghiệp như các chủ nhân thời Marx mà nhờ cái bộ óc của
anh. Như một chuyên gia Việt Nam ở Thung Lũng điện tử, chỉ bán con
“chíp” và “software” là đột nhiên trở thành tỉ phú! Mấy Chủ Nhân “Google.com”
và “E-Bay”cũng thế! Đâu có cần phải bóc lột giá trị thặng dư của công
nhân! Đa số các công ty, các hãng xe Nhật đều có công nhân trong ban
quản trị, được góp ý kiến, được chỉ huy bạn mình! Cùng với sự phát triển
của thị trường chứng khoán, nhiều người thành tỷ phú trong một thời
gian ngắn mà không cần thuê công nhân. Như vậy, Marx sai lầm thê thảm!
Marx còn sai hơn nữa khi cho rằng Tư Bản nhất định phải bao hàm một chế
độ độc tài mà ông ta cũng còn gọi là Đế Quốc (Imperalism). Điều này bị
lịch sử chứng minh ngược lại. Các chế độ đế quốc độc tài giờ đã biến mất
trên mặt địa cầu, còn trơ lại có Đảng Cộng Sản là độc tài còn hơn Đế
Quốc và Thực Dân nữa. Vài quốc gia có chế độ quân chủ, chỉ còn lại là
những biểu hiện lịch sử, không có giá trị chính trị.
5 – Marx còn sai khi tiên đoán rằng một
cuộc cách mạng vô sản sẽ nổ ra ở các nước tư bản Âu Châu, nơi mà người
bóc lột người. “Hãy để bọn lãnh đạo rung động với một cuộc cách mạng
cộng sản! Những người bị bóc lột chả có gì để mất ngoài xiềng xích trên
chân họ!” (9) Trong các cuốn sách của Marx, các ý tưởng về Tư Bản đều
đặt trên hệ thống kinh tế xã hội Âu Châu, tiêu biểu là nước Anh. Marx
muốn thay đổi trật tự xã hội cho các nước Tư Bản Âu châu hồi đó đang
trên đà phát triển kỹ nghệ. Đúng ra, cuốn Tư Bản Luận phê bình thậm tệ
về nền Tư Bản Kỹ Nghệ (Industial Capitalism) chứ không chủ trương nói về
các nước còn trong chế độ Quân chủ. Sai! Cuộc cách mạng đầu tiên lại nổ
ra ở Nga sô, nơi mà chế độ quân chủ còn tồn tại. Nga lúc đó ở trong
giai đoạn quân chủ, chưa tiến tới tư bản, vì vẫn còn Nga Hoàng mà cả gia
đình đều bị thủ tiêu, trừ người công chúa út, mà Walt Disney đã làm nên
cuốn phim “Anatasia!” Lê Nin đã sửa chữa lý luận của Các Mác cho hợp
với tình hình thời đó, nên nếu nói cho chính xác một cách khoa học, LÝ
LUẬN NGUYÊN THỦY CỦA CÁC MÁC CHƯA BAO GIỜ ĐƯỢC NGƯỜI CỘNG SẢN ÁP DỤNG
TRÊN THẾ GIỚI! Chỉ có lý thuyết MARXISM-LENINISM chủ trương “dùng Bạo
Lực của kẻ vô sản, trần truồng, (10) chọi lại Bạo Lực của kẻ có tiền
của” là được áp dụng. Sau này, Hồ Chí Minh đã lượm ý tưởng Mác Lê và cho
là “một cuộc cách mạng của công nhân” phải được thực hiện để thay đổi
toàn bộ cấu trúc xã hội. Rồi Bác thêm mắm muối vào cho ra vẻ Việt Nam.
Bác lập ra những hợp tác xã nông nghiệp, công nghiệp dưới chế độ Bao Cấp
mà không biết gì về tính quản trị, nên toàn bộ mấy cái hợp tác xã của
Bác tan tành, bốc hơi hết trọi trước năm 2000.
5 – Nói về tiến trình của lịch sử thế
giới, Marx lại càng sai! Theo ông, lịch sử thế giới tiến theo một trình
tự như sau: Nhân loại đầu tiên theo chế độ Cộng Sản nguyên thủy
(Primitive Communism) vì hồi đó, ai có đồ hái lượm đều chia cho nhau xài
chung.
Sau đó đến chế độ Nô Lệ (Slave Society),
rồi Phong Kiến (Feudalism), tiếp theo là Tư Bản (Capitalism), cuối cùng
là Xã Hội Chủ Nghĩa/Cộng Sản Chủ Nghĩa (Socialism/Communism) Thế là chấm
dứt tiến triển.
Chủ Nghĩa Cộng Sản vô địch sẽ sống mãi trong lịch sử! (11)
Điều này sai trật rất lớn! Ai có thể
khẳng định rằng trong thời hồng hoang, con người chia đồ cho nhau xài
chung? Đâu chỉ có dựa vào một số đồ dùng đá, sắt ở một chỗ và mấy cái
hình khắc trên hang động mà kết luận rằng mọi người thương yêu nhau, xài
chung đồ! Họ có thể tranh giảnh nhau đến chết! Cho nên mới có sự rải
rác, nhóm này ở đây, nhóm đó ở chỗ khác, lại còn vài cái sọ người cô đơn
ở những chỗ không thể hiểu! Mấy dụng cụ lao động mà người ta tìm thấy
thời ông cố, ông sơ ngày xưa, có cái còn nằm trong thân người khác,
nghĩa là có đâm chém nhau, giành quyền sở hữu.
Rồi, sau khi Phong kiến tàn, Tư bản bây
giờ còn lộng hành hơn bao giờ hết, chủ nghĩa xã hội thực sự chưa hề
thấy! Sau thời gian Xếp Hàng Cả Ngày, Xạo Hết Chỗ Nói, Xếp Hạng Con
Người Xuống Hàng Chó Ngựa, tất cả các lãnh đạo Cộng Sản trên thế giới đã
biến thành Tư Bản, Tài Phiệt (Capitalist) hết, từ Cu ba, Trung Cộng,
Bắc Hàn, đến mấy lãnh tụ của Việt Nam, người nào cũng chiếm đoạt hết tài
sản dân chúng vào trong tay, chơi bời thỏa thích, sống huy hoàng trên
đầu trên cổ dân mình. Thủ Lãnh của Bắc Hàn hiện nay sống xa hoa gấp ngàn
lần các lãnh tụ Tư Bản, Phong Kiến, Thực Dân của thế kỷ trước.
Từ
Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nông Đức Mạnh, đến các lãnh tụ trong
Bộ Chính Trị, và Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản đều là những
Đại Gia Tư Bản khổng lồ, những người mà Đảng đã từng “đánh” tan nát,
trong các chiến dịch “ĐÁNH TƯ SẢN MẠI BẢN” nhiều lần trước 1975 tại miền
Bắc và sau 1975 tại miền Nam.
Hiện nay, Nguyễn Tấn Dũng và gia đình là
một trong những nhà Tư Bản giầu nhất Đông Nam Á.
Bố là Thủ Tướng, nắm
quyền lực chính trị, con gái là Tổng Giám Đốc Đầu Tư, thu hết mọi nguồn
tiền từ thế giới đổ vào Việt Nam, coi như hai cha con đã thống lĩnh toàn
bộ đất nước về hai mặt Chính Trị và Thị Trường Tư Bản.
Chế độ này còn
quân chủ hơn các chế độ quân chủ khác trên thế giới vì vẫn áp dụng việc
Cha Truyền Con Nối, tiền bạc ăn cướp được của nhân dân chỉ được lưu hành
trong hệ thống gia đình, vợ lớn, vợ nhỏ, bồ nhí, cháu, chắt…Với quyền
lực mênh mông, vô hạn, lại không có hệ thống kiểm soát, nên tha hồ chia
chác tài sản, quyền hành cho nhau. Chế độ này còn KHỐN NẠN hơn mọi chế
độ Thực Dân, Phong kiến, vì có toàn quyền bán đất, bán nước cho ngoại
bang. Những nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá đều được giao cho người
nước ngoài khai thác đến cạn kiệt. Ngoài Tây Nguyên với Bô xít, ngoài
các công trình đi khắp đất nước được giao cho Trung Cộng, còn toàn bộ
các rừng đầu nguồn, trong đó có rất nhiều tài nguyên, mỏ sắt, mỏ chì, mỏ
kẽm… đều được giao cho Trung Cộng, kẻ luôn nuôi mộng xâm lăng nước ta,
trong thời gian từ 50 năm đến 100 năm. Mới đây, khi đón Tập Cận Bình,
Nhà Nước đã cho trương toàn cờ Trung Cộng với sau (6) ngôi sao, chứng tỏ
một cách hùng hồn là Việt Nam chỉ là một trong các “Tỉnh” chư hầu của
Trung Cộng. Điều nhục nhã nhất là trong khi phất cờ Trung Cộng, thì lại
quên cho phất cờ Việt Nam Cộng Sản, phong cách này y hệt như khi “Bác
Hồ” đi thăm một tỉnh nào ở miền Bắc, chỉ phất một thứ cờ Cộng Sản Việt
Nam mà thôi. Việc phất một thứ cờ Trung Cộng với 6 sao mà không cho phất
cờ VNCS đã thực tế, công khai chấp nhận là Việt Nam là một tỉnh của
Trung Cộng! Nhục nhã hơn nữa là cho bắt tù tất cả những ai yêu nước và
lớn tiếng kêu gọi độc lập. Từ Điếu Cầy, Nguyễn Văn Tính, Phạm Thanh
Nghiên.. đến một nhạc sĩ chỉ viết bài “Anh là Ai” kêu gọi Công An hãy cư
xử như một người Việt Nam mà không phải là kẻ “lạ”, vậy mà cũng bị bắt
giữ, tù đầy!
Như vậy, thực tế, Chủ Nghĩa Xã Hội của
những người Cộng Sản đã chỉ là lý thuyết không tưởng, chỉ còn lại những
biến thể của chế độ Tư Bản, một chế độ “Người Bóc Lột Người, Người Bán
Nước Mình, dù vẫn mang nhãn hiệu Cộng Sản”. (10)
Với trình độ lý luận hiện tại, với phuơng
tiện khoa học hiện tại, người ta biết chắc chắn rằng KHÔNG BAO GIỜ CÓ
NGÀY MÀ THIÊN ĐƯỜNG CỘNG SẢN hiện diện ở trần gian, trong đó tất cả tài
sản, công cụ lao động, phương tiện lao động và Lao Động đều được tập
trung rồi phân chia đồng đều, mọi người “làm theo năng lực, huởng theo
nhu cầu”, sức khỏe và tài năng đến đâu thì làm đến đó, còn thích ăn,
thích ở như thế nào thì cứ việc tự nhiên, vợ anh cũng là vợ tôi, má tôi
có thể cũng là vợ anh, tôi muốn ăn đồ nhà anh, muốn xài bất cứ cái gì
cũng đặng! (12)
6 – Trên hết, sự sai lầm kinh khủng nhất
của Marx là thiếu tâm lý học. Tuy người đời cho ông một đống tên tuổi
nào là Nhà Sử Học (Historian), Triết gia (Philosopher), Khoa Học Gia Xã
Hội ( ) và Nhà
cách mạng (Revolutionist), ông lại thiếu một ngành quan trọng: Tâm Lý
Học! Khi ông đề nghị một cuộc cách mạng rung trời, lở đất, để giành lấy
chính quyền cho nhân dân, ông không biết rằng những kẻ lãnh đạo, sau khi
thành công, thì không khi nào nhường lại cái đặc quyền lãnh đạo ấy cho
nhân dân cả! Đã nắm được quyền lực thì nắm luôn. Đã lượm được tiền, vàng
bạc, ngân khố rồi thì không ai thích trả lại.Thêm nữa, một khi đã say
máu giết người rồi, thì cứ thế mà say máu, giết người! Do đó, mà sau các
cuộc cách mạng xã hội, số người chết nhiều không thể đếm được. Người ta
chỉ có thể ước lượng, Trung Cộng giết hơn BA CHỤC TRIỆU người, Liên Xô
ít hơn, chỉ có hơn MƯỜI TRIỆU NGƯỜI thôi.
Còn Việt Nam? Cuộc chiến vừa
qua đã giết gần BA TRIỆU NGƯỜI, nếu nhân với con số trung bình là 4
người cho một gia đình, thì số người bị thiệt hại, oan ức thật sự là 12
triệu người.
Kết luận, để có thể chấm dứt cái chế độ
oan oan nghiệt nghiệt Cộng Sản đang tàn phá quê hương và dân tộc ta,
người dân Việt Nam phải đồng loạt đứng lên, và gào to chính cái mệnh
lệnh mà Các Mác đã hô hoán ngày trước:
“Hãy để các lãnh đạo “Cộng Sản” rung động
với một cuộc cách mạng mới! Những người bị bóc lột chả có gì để mất
ngoài xiềng xích trên chân họ!”
Chu tất Tiến. M.S.P.
(1)Chữ của Hồ Chí Minh
(2) Cuốn “Ngục Trung Nhật Ký” của Hồ Chí Minh là cuốn đạo thơ.
(3) Hồ Chí Minh giả mạo tên Trần Dân Tiên để viết sách ca tụng mình.
(4) Hoàn toàn vô sản.
(5) Bourgeois
(6) Blessed is he that hath no family!
(7) Begging for a forgiveness from God if he had ever written anything “immoral”
(8) Although he railed all the
libertinism and promiscuity, he enjoyed watching amorous escapades/
Stanford Encyclopedia of Philosophy.
(9) Let the ruling class tremble at a commnunistic revolution! The proletarian have nothing to lose but their chains!
(10) Nếu thực sự là Chuyên Chính Vô Sản,
thì quần áo, giầy dép cũng không có, vì quần áo, giầy dép đều là sản
phẩm của chủ nghĩa Tư Bản. Chủ Nghĩa Cộng Sản không có phát không quần
áo và giầy dép cho ai hết. Sau 1975, chỉ có các công nhân có làm việc
mới được phát vải tượng trưng. Vì thế, nhân dân mới có thơ rằng: “Một
năm hai thước vải thô. Lấy gì che nổi cụ Hồ, hỡi em?”
(11) Ngày nay có Ngài Giám Mục Khảm đang cho rằng chính chủ nghĩa Các Mác là thời đại Cánh Chung của nhân loại.
(12) Một câu chuyện thực: Năm 1977, tại
trại tù Cà Tum, người viết bài này cùng với 4 bạn tù nữa bị kêu đi lợp
mái nhà cho tay Chính Trị Viên Trung Đoàn. Cả năm người đang im lặng
ngồi trên nóc nhà, đắp thêm các lớp tranh mới thì nghe tiếng tên Trung
Đoàn Trưởng vừa bước vào, vừa nói lớn:
- Đ.M. Cái nồi to của tao đâu rồi?
Tên Chính Trị Viên nhỏ nhẹ:
- Thì.. anh em mượn dùng để đâu đó..
Tên Trung Đoàn Trưởng hùng hổ:
- Mượn? Mượn thì phải hỏi tao chứ?
Chính Trị Viên nhắc khéo:
- Thì.. XÃ HỘI CHỦ NGHĨA mà!
Tên Trung Đoàn Trưởng gầm lên:
- XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CÁI CON C.! Mày có đưa vợ mày cho tao ch… không mà nói Xã Hội Chủ Nghĩa!
Tên Chính Trị Viên nghe câu này phát lên
trước bọn tù thì sợ quá, vội kéo tay kia nói nhỏ gì đó, rồi cả hai vội
vã bước ra khỏi nhà. Ở trên nóc, năm tên tù cười rung cả mái nhà lên,
suýt nữa thì té nhào xuống đất!
No comments:
Post a Comment