Việt
Nam là một dân tộc ưa chuộng hòa bình, nặng về tình cảm dân tộc, nhưng
lại là một đất nước gánh chịu nhiều đau thương. Sau “1000 năm đô hộ bởi
giặc Tầu, 100 năm đô hộ bởi giặc Tây”, đất nước đã vướng vào “nội
chiến” kéo dài hàng thế kỷ. Sau 30 năm chống Thực dân Pháp, cả nước lại
đắm chìm trong chiến tranh chống “Ý Thức Hệ” cộng sản, để toàn dân bị
cuốn lôi trong cơn lốc hận thù.
Ngày 30-4-1975, Việt Nam Cộng Hòa bị
bức tử, danh hiệu “Hòn Ngọc Viễn Đông” đã trở thành ảo tưởng.
Đất nước
lọt vào tay cộng sản. Dù “gọi là Thống nhất” từ Bắc vào Nam, mới chỉ
thống nhất về phương diện địa dư, nhưng lại khởi đầu sự chia rẽ nặng nề
trong lòng dân tộc, giữa chủ thuyết cộng sản độc tài đàn áp và nếp sống
Tự do Dân chủ.
Nhiều người đặt câu hỏi, cũng sau
hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, tại sao nước Nhật chỉ cần 15 đến 20 năm
xây dựng, đã thoát khỏi đói nghèo, hoang tàn đổ nát, để trở thành một
đất nước phát triển, có nền kinh tế vững mạnh vào hàng nhất nhì Á Châu,
giữ được niềm tự hào dân tộc, một truyền thống văn hóa đã có từ lâu đời.
Nam Hàn là đất nước đáng kính phục
tương tự. Mặc dù đang trong tình trạng chia cắt Bắc Nam, luôn luôn bị
đe dọa bởi chiến tranh do “người anh em” phương Bắc, nhưng Nam Hàn cũng
chỉ cần một thời gian như nước Nhật, đã xây dựng được một nền kinh tế
vững mạnh, khoa học kỹ thuật vượt bậc, và trở lên một trong những con
Rồng tại Châu Á. Trái lại, Bắc Hàn vì theo chế độ độc tài, dồn mọi nỗ
lực phát triển sản phẩm chiến tranh, khiến đời sống người dân luôn ở
trong tình trạng đói nghèo, phải nhận sự trợ giúp của các nước, nhất là
về lương thực từ Nam Hàn.
Một hoàn cảnh khác rất gần gũi với
Việt Nam là nước Đức. Trong Thế Chiến thứ II, nước Đức bị chia đôi tại
Bá Linh thành hai nước Tây Đức và Đông Đức, như Việt Nam chia đôi tại
lằn ranh sông Bên Hải (vĩ tuyến 17) sau ngày 20-7-1954. Đông Đức thuộc
khối cộng sản nằm trong quỹ đạo của Liên Xô, còn Tây Đức thuộc khối Tự
Do. Khi bức tường Bá Linh sụp đổ năm 1989, nước Đức thống nhất với hai
hoàn cảnh xã hội khác nhau, giữa giầu và nghèo, giữa phát triển và chậm
tiến. Mặc dù Tây Đức phải “cưu mang” Đông Đức để cùng phát triển, nhưng
sự kết hợp của quốc gia này là một sự thống nhất hoàn hảo, không tốn
một giọt máu của người dân, vẫn giữ được tình cảm yêu thương con người
cùng huyết thống, nêu cao được đặc tính anh hùng của dân tộc Đức.
Sau những biến động tại Đông Âu vào
năm 1989, Đông Đức sát nhập vào Tây Đức để trở thành một phần của Tây
Âu, khiến Khối cộng sản Đông Âu tan vỡ và các nước này từ bỏ chủ thuyết
cộng sản.
Đơn cử như Ba Lan, sau nửa thế kỷ
dưới sự cai trị hà khắc, tàn bạo của cộng sản Liên Xô, người dân Ba Lan
đã khởi đầu cuộc sống Tự do, làm chủ vận mệnh của mình qua cuộc bầu cử
ngày 4-6-1989. Ba Lan đã liên minh với Hoa Kỳ và khối NATO để được bảo
đảm an toàn. Khi trở lại chế độ dân chủ, Ba Lan đã theo đuổi hệ thống
kinh tế thị trường, nhắm vào sở hữu tư nhân. Chính quyết định sáng suốt
này đã giúp cho Ba Lan phát triển mạnh, nhất là sau khi gia nhập Liên
Minh Châu Âu.
Nga Xô cũng phải thay đổi, và mất đi
vị thế lãnh đạo khối cộng sản trong nhiều thập niên như trước đây, một
khoảng thời gian dài ngập chìm trong máu và nước mắt.
Theo giáo sư R.
J. Rummel, số nạn nhân trên thế giới trong thế kỷ 20 gây ra bởi chế độ
độc tài cộng sản được liệt kê:
- 61.911.000 người bị chết trong trại tù của Liên bang Sô Viết.
- 35.236.000 người bị chết dưới chế độ cộng sản Trung Hoa.
- 20.946.000 người bị chết dưới chế độ diệt chủng Đức Quốc Xã.
- 5.964.000 người bị chết dưới thời Quân Phiệt Nhật.
- 2.035.000 người bị chết dưới thời Khmer Đỏ
- 1.883.000 người bị chết dưới chế độ diệt cgu3ng tai Thổ Nhĩ Kỳ
- 1.670.000 người bị chết trong chiến tranh Việt Nam.
- 1.585.000 người bị chết do thanh lọc chủng tộc tại Ba Lan.
- 1.503.000 người bị chết trong thời Young Turks
- 1.072.000 người bị chết dưới chế độ Tito
Những sự thay đổi của các quốc gia
Đông Âu vẫn không là một bài học cho Việt Nam. Việt Nam vẫn “trung
thành” với chủ thuyết Mác Lê, mặc dù chủ thuyết này đã bị đất nước khai
sinh ra nó vất vào thùng rác của lịch sử nhân loại.
Về phương diện kinh tế, Việt Nam vẫn
dậm chân tại chỗ khiến đất nước ngày càng tụt hậu. Mặc dù phải chuyển
đổi sang “kinh tế thị trường” để sống còn, nhưng đảng vẫn thêm vào cái
đuôi “định hướng XHCN”. Khái niệm “định hướng XHCN” có mặt tại hầu hết
các ngành, nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã tuyên bố sẽ “tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là một trong những
nhiệm vụ hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Sau 20
năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp trước đây sang thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN”.
Thực ra, khi thêm cái đuôi “định
hướng XHCN” vào nền kinh tế thị trường, đã khiến kinh tế Việt Nam trở
thành “một loại kinh tế” khập khiễng, nửa vời, làm chậm tiến trình phát
triển của đất nước. Chúng ta nhận ra rằng, Việt Nam thoát ra khỏi tình
trạng nghèo đói là nhờ chuyển qua kinh tế thị trường, chứ không do “định
hướng XHCN”.
Liệu các quan chức lãnh đạo đảng CSVN có can đảm nói ra
điều này không?
Hơn nữa, từ sau ngày “mở cửa và đổi
mới”, kiều hối đã đóng một vai trò quan trọng cho sự phát triển đất
nước. Theo VOA, Việt Nam đã nhận được 11 Tỉ Mỹ kim trong năm 2013, nâng
tổng số kiều hối lên 84 Tỉ Mỹ kim trong khoảng thời gian từ 1993-2013
(theo thống kê từ các Cơ quan Tài chính Việt Nam), một ngân khoản không
hoàn trả, rất cần thiết cho các quốc gia kém mở mang đang cần phương
tiện để phát triển.
Để biết vị thế phát triển kinh tế của Việt Nam tới đâu, chúng ta hãy so sánh với các quốc gia trong vùng qua các giai đoạn:
– Thời điểm 1960 (*)
1/ Singapore: 395 US$
2/ Malaysia: 299 US$
3/ Philippine: 257 US$
4/ South VN (VNCH) 223 US$
5/ South Korea 155 US$
6/ Thailand: 101 US$
7/ China: 92 US$
8/ India: 84 US$
9/ North VN (VNDCCH) 73 US$
Trong thời gian từ 1954 đến 1975, năm
1960 là năm VNCH có nền kinh tế huy hoàng nhất, mặc dù chiến tranh du
kích đã gây trở ngại cho sự phát triển kinh tế tại nông thôn miền Nam.
– Thời điểm 2013 (*)
Các quốc gia trong vùng không khởi hành cùng một điểm, nên sự phát triển khác nhau.
Chẳng hạn: Việt Nam có tọa độ 1.660 US$,
Singapore có tọa độ 50.899 US$.
Riêng phần Việt Nam, vì vận tốc gia
tăng thấp hơn các quốc gia trong vùng, nên tiếp tục ở hạng chót, không
những không đuổi kịp bất cứ nước nào mà ngày càng tụt hậu, càng nghèo
nếu so với các nước trên.
* (Nguồn: Trần Đăng Hồng, PhD)
Về mức thu nhập của người Việt đối
với các quốc gia trong vùng, Tiến sĩ Phạm Hồng Chương có nhận xét: “Đây
là những chỉ số còn thấp xa so với mức bình quân chung của khu vực, của
Châu Á và Thế giới”. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới về sự phát
triển Việt Nam năm 2009, mức thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam
tụt hậu tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm
so với Singapore.
Vào cuối năm 2013, tại Diễn Đàn Kinh
doanh Việt Nam tổ chức ở Hà Nội, Thủ Tướng nguyễn Tấn Dũng công bố GDP
đã đạt mức 176 tỉ Mỹ kim và thu nhập bình quân đầu người lên tới 1960
US$/năm. Ông Dũng phát biểu trong hội nghị: “Kinh tế Việt Nam đã vượt
qua khó khăn và đang trên đường tiến tới tăng trưởng cao hơn trong tương
lai.”
Thực ra, như nhận định của nhiều
chuyên gia, con số GDP không tác động gì nhiều đến mức sống của người
dân. Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, lấy số GDP chia cho 90 triệu người
dân để ra con số thu nhập đầu người (1960 US$), không phải là con số
thực sự mà người dân được hưởng. Ông cũng nghi ngờ số liệu thống kê đã
được thổi phồng. Tình trạng này đưa tới: “kết quả sai lệch có thể dẫn
đến những chính sách tồi hơn, và nó lại khuyến khích người ta phải tô
son trát phấn để cho số liệu nó đẹp. Vòng lẩn quẩn cứ như thế là một
mối nguy cho đất nước.” (Nguồn: BBC)
Đối với thực trạng đời sống của người
dân Việt sau ngày 30-4-1975, Trung Tướng Trần Độ, một người cộng sản
với nhiều năm tuổi đảng, đã nhận định: “Tại sao chiếm được miền Nam năm
1975, một nửa đất nước trù phú như vậy mà chỉ vài năm sau đã đưa cả nước
vào tình trạng nghèo đói ngắc ngoải như vậy?”
Người Việt trong và
ngoài nước đã đặt câu hỏi về số tài sản của VNCH trong ngân khố và tài
sản thuộc các cơ sở của tư nhân miền Nam, sau ngày 30-4-1975 đã nằm
trong tay ai, vẫn không được nhà nước kê khai rõ ràng để thông báo cho
nhân dân.
Người Việt không thể quên hành động
bán nước của đảng CSVN qua Công Hàm Phạm Văn Đồng công nhận Hoàng –
Trường sa là của Trung cộng vào năm 1958, mặc dầu vào thời gian này
Hoàng sa và Trường sa thuộc chủ quyền của VNCH. Sự chuyển nhượng này
không công khai, chỉ là việc làm âm thầm giữa hai đảng cộng sản Trung
Hoa và Việt Nam.
Ngày 30-12-1999, Tổng Bí thư Lê Khả
Phiêu ký Hiệp ước trao 789 cây số vuông dọc biên giới phiá Bắc cho Trung
cộng, đã không có ý kiến của nhân dân qua một cuộc trưng cầu. Sau khi
có nhiều ý kiến phản đối vì văn kiện ký kết không thông qua Quốc hội,
nên đảng CSVN mới đưa cho một Tiểu ban để phê chuẩn. Với những hành
động phương hại đến chủ quyền quốc gia, ngày 25-12-2000, Trần Đức Lương
đại diện đảng đã ký Hiệp Ước cắt 11.362 cây số vuông vịnh Bắc Bộ cho
Trung cộng. Tất cả những việc vi phạm kể trên, đảng CSVN chứng tỏ đã
coi thường Hiến pháp.
Ngày 1-1-2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng lấy cớ vì chủ trương lớn của đảng, nên đã ký quyết định số 167 về
việc giao cho nhà thầu Trung Hoa khai thác quặng Bauxite từ 2007-2015,
bất chấp những phản đối từ các chuyên gia và các hội đoàn về tai họa môi
trường cũng như an ninh quốc phòng. Nhất là công nhân các công trình
khai thác này lên tới 3, 4 chục ngàn người đều là người Trung Hoa, trong
khi công nhân Việt Nam không có công ăn việc làm. Khu vực khai thác đã
cấm người dân vùng này, kể cả cán bộ đảng cũng không được lai vãng.
Đảng CSVN để mặc cho công nhân Trung cộng bức hại người Việt trên đất
Việt.
Sau 3 thập niên cai trị miền Bắc và 4
thập niên nắm quyền sinh sát toàn cõi Việt Nam, đảng CSVN đã chứng tỏ
không có khả năng xây dựng. Từ những kết quả trên, người dân nhận ra
tình trạng tham nhũng từ thượng tầng tổ chức trở thành quốc nạn, an ninh
xã hội ngày càng xuống cấp, đã trở lên vô phương cứu chữa. Mô hình
XHCN ngày càng mơ hồ, chỉ là lớp vỏ bọc cho hành động tham nhũng, là chỗ
dựa cho đảng tận dụng đàn áp, hầu duy trì vị thế cầm quyền.
Đã tới lúc
toàn dân Việt phải có hành động để cứu nguy đất nước thoát khỏi vòng nộ
lệ. Chỉ có con đường Tự do Dân chủ mới đưa quốc gia tới phú cường, để
người dân được hưởng một đời sống tự do hạnh phúc thật sự.
No comments:
Post a Comment