Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 209 (15-12-2014)
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã
lưu danh thơm trong lịch sử tư pháp Việt Nam nhờ bài “Qua những sai lầm
trong Cải cách Ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo” đọc tại Mặt trận
Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30-10-1956. Trong bản văn lịch sử này, ông mạnh mẽ
phê phán rằng cuộc CCRĐ đã được thực hiện với phương châm sắt máu “thà
chết 10 người oan còn hơn để sót một địch”; phương châm ấy đi ngược với
quy tắc cơ bản của pháp luật, trong trường hợp này là “thà 10 địch sót
còn hơn một người bị kết án oan”! Ông còn cho biết nhiều quy tắc pháp lý
khác đã bị cuộc CCRĐ vi phạm, chẳng hạn: “Muốn kết án một người phải có
bằng chứng xác đáng”; “Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi
của bị can. Bị can có quyền nhờ luật sư bào chữa. Phải tôn trọng bị can
trong quá trình truy tố và xét xử; khi bị can ra trước tòa không được
xiềng xích và không được dùng nhục hình”. Bất hạnh thay, chính bài phát
biểu này đã chấm dứt sự nghiệp của ông và khiến ông bị Hồ Chí Minh cùng
đảng Cộng sản đày đọa bản thân lẫn gia đình cho đến chết.
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (và
những nạn nhân ông bênh vực) đã phải lãnh số phận bi đát như thế chẳng
có gì lạ. Bởi lẽ vốn coi con người chỉ thuần túy là vật chất, chẳng có
hồn thiêng, bất cần Thượng Đế; coi đời sống xã hội là một cuộc chiến
sinh tồn, đấu tranh giai cấp, yếu thua mạnh được; coi chính quyền đẻ ra
từ nòng súng, trường tồn nhờ dối trá, củng cố nhờ bạo lực, nên chế độ
cộng sản là tay vô địch trong việc thảm sát và các lãnh tụ cộng sản (từ
Lênin, Stalin đến Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh…) là những quán quân về
việc giết người, đặc biệt giết chính đồng bào của chúng… Chúng giết
người qua các cuộc chiến tranh chúng gây ra, các cuộc thanh trừng, các
cuộc cải cách (như cải cách ruộng đất), cách mạng (như cách mạng văn
hóa), chỉnh đốn (như chỉnh quân chỉnh đảng) và qua một hệ thống tư pháp
rất khoái án tử hình (Nga cộng, Tàu Cộng, Hàn cộng và Việt cộng là tiêu
biểu). Thói hiếu sát của các lãnh tụ ấy dĩ nhiên cũng truyền lại cho đồ
đệ và đồng đảng.
Điều đó đã khiến máu của dân Việt đổ ra dưới chế độ và
triều đại CS nhiều hơn dưới bất cứ chế độ và triều đại nào của sử Việt.
Nay dù trong thời bình, máu đó vẫn tiếp tục đổ ra nơi những người đi xe
không đội mũ bảo hiểm bị cảnh sát quật cho vỡ sọ, nơi những người bị
triệu đến đồn vì một cớ vu vơ nào đó để rồi bị công an tra tấn đến tử
vong, nơi những người can đảm đi đòi công lý để rồi bị đánh cho thương
tật trên đường hay bị hành hạ tới chết trong lao ngục, nơi những người
tù không may bị vu cáo hay cưỡng bức nhận tội sát nhân để rồi phải lãnh
án tử. Và đó là hai trường hợp đang gây công phẫn dư luận, hai “phạm
nhân” trẻ có tên Nguyễn Văn Chưởng (sinh năm 1983) và Hồ Duy Hải (sinh
năm 1985), vốn bị tòa sơ thẩm lẫn phúc thẩm kết án tử hình từ lâu và chờ
bị tiêm thuốc độc cuối năm nay (NVC) và đầu năm tới (HDH), sau từng ấy
năm bản thân họ kêu oan trong tức tưởi lẫn khắc khoải và gia đình họ đi
đòi công lý trong đau khổ lẫn tuyệt vọng. Tưởng cũng nên nhắc lại chút
ít hai án oan này
Trước hết là vụ 1 thiếu tá công
an ở Hải Phòng bị giết chết đêm 14-7-2007. Vụ án có 3 bị cáo gồm Vũ
Đoàn Trung, ở Hải Phòng, nhận tội, 23 năm tù giam; Đỗ Văn Hoàng (bị Vũ
Đoàn Trung tố cáo là đồng phạm), ở Hải Phòng, không nhận tội, tù chung
thân; và Nguyễn Văn Chưởng, ở Hải Dương (bị Vũ Đoàn Trung tố cáo là chủ
mưu), không nhận tội, tử hình! Có những bằng cớ cho thấy tháng 7 năm ấy,
bị cáo Chưởng đang lao động ở Hải Phòng. Tuy nhiên, anh không có mặt
tại đó vào thời điểm án mạng, vì thường về thăm nhà ở thôn 1, xã Bình
Dân, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương mỗi cuối tuần. Nhiều người thân lẫn
người dân trong thôn đã làm chứng về sự có mặt của anh tại nhà đêm
14-7-2007, xa phạm trường tới 40km. Thế nhưng lời khai của các nhân
chứng đã bị cơ quan điều tra hoặc xuyên tạc (như mẹ bị cáo) hoặc dùng
tra tấn để buộc rút lại (như vợ bị cáo hoặc nhiều người dân trong thôn).
Rốt cuộc, các chứng nhân ấy không được ghi lời khai trong cáo trạng
cũng chẳng được triệu tập đến tòa trong ngày xử.
Nhiều tình tiết cho thấy công
an Hải Phòng (đứng đầu là Đỗ Hữu Ka, viên tướng khét tiếng từng dẫn quân
tới bắn phá, cướp của và bắt bớ gia đình Đoàn Văn Vươn đầu năm 2013 tại
Tiên Lãng) đã áp đặt tội cho Nguyễn Văn Chưởng ngay từ khi cuộc điều
tra khởi sự. Đó là bắt giam em trai của Chưởng chính khi anh này đem nộp
đơn của mẹ kêu oan cho con, sau đó tặng anh 2 năm tù vì “che giấu tội
phạm”! Đó là tra tấn bị cáo Chưởng và nhiều chứng nhân hết sức dã man
(xem thư Chưởng gởi gia đình ngày 07-04-2009) để hủy bằng cớ anh ngoại
phạm. Đó là trong hồ sơ vụ án, giấy tờ giám định thương tích của Chưởng,
lời khai của nhiều nhân chứng vắng bóng; chữ ký của em trai Chưởng bị
giả mạo; lời khai của bị cáo Vũ Toàn Trung rất mâu thuẫn; yêu cầu của
Chưởng xin được khôi phục các cuộc điện thoại của mình từ nhà tối ngày
14 và sáng ngày 15-07-2007 cũng bị lờ hẳn. Ngoài ra, cơ quan điều tra
còn gây khó khăn và chậm trễ trong việc cấp giấy chứng nhận người bào
chữa (hơn 3 tháng so với qui định là 3 ngày) khiến nhiều cuộc thẩm vấn
và nhiều biên bản không có luật sư tham dự (hay nếu có thì công an chẳng
giới thiệu là luật sư). Đến ngày xét xử, tòa án không triệu tập nhân
chứng nào cũng chẳng cho các bị cáo đối chất nhau. Chưởng kêu bị tra tấn
thì Hội đồng xét xử bác bỏ vì cho rằng không có trong biên bản.
Nhận thấy vụ án bất công, gia
đình thuê các luật sư bào chữa thì được họ trả lời rằng VN không có luật
pháp mà chỉ có luật rừng của đám cầm quyền nên không thể cãi nổi. Gửi
hàng ngàn đơn thư, thậm chí huyết thư đến Chủ tịch nước cũng vô vọng (x.
RFA 3-12-2014). Hiện cả gia đình không làm đơn xin ân xá mà chỉ một mực
kêu vô tội. Quá đỗi oan ức, bà mẹ còn cho biết sẽ nổ bom nếu Chưởng bị
đem hành hình!
Thứ hai là vụ 2 nữ nhân viên
bưu điện bị hãm hiếp, giết chết đoạn cướp của ngày 14-01-2008 ở bưu cục
Cầu Voi, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An mà chẳng một ai chứng kiến. Khoảng
3 tháng sau, cơ quan công an điều tra bắt sinh viên Hồ Duy Hải, rồi cả
hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều tuyên án tử cho anh về các tội “giết
người”, “cướp tài sản”.
Tuy trong các bản khai, HDH có
nhận tội, nhưng trước hai tòa và khi gặp thân nhân, anh đều cho biết đó
là do đã bị tra tấn dã man quá thể. Trong phiên sơ thẩm ngày 28-11-2008,
luật sư bào chữa Nguyễn Văn Đạt đã đưa ra đến 41 điểm sai phạm trong
quá trình tố tụng và điều tra xét hỏi, như không vật chứng (dấu vân tay
tại phạm trường chẳng phải của bị cáo, hung khí giết chết 2 nạn nhân là
đồ đi mua ở chợ về sau…), cũng không nhân chứng xác nhận bị cáo có mặt
tại phạm trường. Trong đơn đề nghị giám đốc thẩm (11-01-2012), luật sư
Trần Hồng Phong cũng chỉ ra vô số điểm bậy bạ của hồ sơ (đặc biệt lời
khai của nhiều nhân chứng đã bị sửa chữa không có chữ ký xác nhận của
họ) để rồi nhận định: việc xét xử phiến diện, làm sai lệch hồ sơ, bất
chấp kết quả giám định khoa học, bỏ qua tình tiết ngoại phạm của bị cáo,
không phù hợp với thực tế khách quan vụ án, vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng… Ngoài ra, nhiều tờ báo còn cho thấy hung thủ có thể là một
kẻ khác và đã được cơ quan điều tra lấy lời khai ngay khi vụ việc mới
phát hiện. Thế nhưng các tình tiết ấy đã không nằm trong hồ sơ. Đó là
chưa kể có mật lệnh cấm báo chí viết về vụ HDH !?!
Sau khi có bản án, bị cáo và
gia đình không viết đơn xin ân xá mà chỉ liên tục kêu oan vô tội. Sáu
năm qua, họ đã gửi đơn khắp nơi đề nghị giám đốc thẩm, nhưng chỉ
được trả lời “đã đúng người đúng tội” hay “hết thẩm quyền xử lý
vụ án”. Bà mẹ còn tìm đến Quốc hội, nhà riêng của các lãnh đạo cao cấp
để kêu cứu nhưng vô vọng hoàn toàn.
Người ta tự hỏi tại sao nền tư
pháp VN giết người dễ như thế và các cơ quan tư pháp đồng lòng với nhau
dễ như vậy?
Đó là vì tại VN chỉ có tam quyền phân công chứ không phân
lập, tư pháp hoàn toàn nằm dưới sự chi phối của CS, có nhiệm vụ bảo đảm
quyền lực của đảng chứ không bảo toàn công lý và bảo vệ nhân quyền, nên
nhiều vụ án oan khốc đã xảy ra, xổ toẹt luật pháp, thách thức công luận,
với những bức cung nhục hình, cáo trạng dối chứng cứ giả, âm mưu cá
nhân và ý đồ tập thể… Ở hai vụ án trên, các nạn nhân bị kết tội chủ yếu
chỉ bằng “lời khai” đẻ ra từ đấm đá roi đòn, không cần vật chứng, lý
chứng, nhân chứng thuyết phục. Điều này dễ hiểu khi mà cơ quan điều tra
luôn được quyền hành động bí mật, loại bỏ vai trò luật sư trong tiến
trình thẩm vấn.
Việc công an nhất quyết cho bị
cáo là thủ phạm dẫu hai bên chẳng có tư thù, điều ấy có thể lý giải bằng
hai cách. Một là bị áp lực đạt chỉ tiêu phá án để bảo vệ thành tích của
đơn vị, công an đã bắt đại một người nào đó để kết tội hay kết tội đại
một người nào đó đã bắt. NVC và HDH không may trở nên vật tế thần. Hai
là công an biết rõ thủ phạm, nhưng tên này lại có quyền hoặc có tiền và
đã biết dùng lợi thế đó để khuynh đảo công lý. Đề nghị kết án tử nạn
nhân nếu thành công thì vừa cứu kẻ được che chở vừa tránh hậu họa bị lỗi
gây án sai (như vụ “tù oan Nguyễn Thanh Chấn”). Rồi khi hồ sơ điều tra
chuyển lên viện kiểm sát, viện này hoặc miễn tố bị cáo vì không đủ chứng
cớ, hoặc giúp công an bảo vệ thành tích phá án bằng cách khởi tố họ.
Nên nhớ kiểm sát và công an là hai cơ quan cùng thuộc hệ thống tư pháp,
dưới quyền chỉ đạo của cùng một đảng, nghĩa là có quan hệ “người nhà”.
Nên kiểm sát giúp công an bảo vệ thành tích là điều dễ hiểu. Khi hồ sơ
được viện kiểm sát chuyển sang tòa án để xét xử, quan hệ “người nhà”
giữa cả ba lại được vận dụng. Tòa án cũng hoặc xét không đủ yếu tố buộc
tội nên yêu cầu công an điều tra lại, hoặc kết án theo hồ sơ gởi tới.
Thực tế, kết quả tái điều tra thường không thay đổi, nên tòa án hay dựa
trên hồ sơ công an để luận tội. Rồi cũng do sợ hậu quả bị khuyết điểm xử
sai, mất thành tích công tác, tòa án sẽ đồng lõa với công an và kiểm
sát kết án tử hình cho xong chuyện, chưa kể còn hưởng mối lợi từ thủ
phạm thật đang có quyền hoặc có tiền.
Đấy là sự khốn nạn của tư pháp
VN và cũng là sự khốn nạn cho dân tộc VN bao lâu còn có đảng Cộng sản
độc tài toàn trị.
Chế độ này (khắp thế giới) từng xây dựng ngai vàng
trên cả trăm triệu bộ xương, nên sẽ tiếp tục thản nhiên chà đạp sinh
mạng con người để tồn tại.
BAN BIÊN TẬP
No comments:
Post a Comment