I. Mang họ Nông nhưng là tông họ Hồ:
Nông Đức Mạnh được xem là một trong những
Tổng bí thư dốt nát nhất trong số các lãnh đạo dốt nát cộng sản. Theo
cộng sản thì Mạnh xuất phát từ một gia đình dân tộc Bắc Kạn. Với trình
độ y tờ của mình liệu một kẻ chỉ biết bô bô ở mọi hội nghị một câu quen
thuộc “Một người tốt làm cho một nhà tốt, một nhà tốt làm cho một phường tốt v.v… và v.v…” thì
liệu có thể leo lên chức vị to nhất của đảng độc tài tại Việt Nam hay
không?
Câu hỏi này cũng không khó trả lời vì thực chất mẹ của Mạnh là
người dân tộc ít học còn Cha của Mạnh mới là kẻ quyết định con đường
công danh của Mạnh.
Theo thông tin chính thức từ nhà nước
cộng sản thì lý lịch của Nông Đức Mạnh hết sức bất minh, không ghi rõ
Mạnh có bố tên gì, mẹ tên gì mà chỉ ghi chung chung “sinh trong một gia
đình nông dân, dân tộc Tày”. Xin xem toàn văn tiểu sử tóm tắt của Mạnh
trên website của đại sứ quán Việt Nam tại Mông cổ lấy thông tin từ cổng
thông tin chính phủ CHXHCNVN để thấy điều này:
“TIỂU SỬ TÓM TẮT Đồng chí NÔNG ĐỨC MẠNH
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Sinh ngày 11/9/1940 tại xã Cường Lợi, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Cạn, xuất thân trong gia đình nông dân, dân tộc Tày.
Tóm tắt quá trình công tác
1958 -1961: Học viên Trường trung cấp nông lâm Trung ương, Hà Nội.
1962 – 1963: Công nhân lâm nghiệp, Kỹ thuật viên điều tra rừng Ty Lâm nghiệp Bắc Cạn.
Vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1963.
1963-1965: Đội phó đội khai thác gỗ Bạch Thông.
1966-1971: Sinh viên Học viện Lâm nghiệp Lê-nin-grát, Liên Xô.
1972-1973: Phó Ban Thanh tra, Ty Lâm nghiệp tỉnh Bác Thái.
1973-1974: Giám đốc Lâm trường Phú Lương, Bắc Thái.
1974-1976: Học viên Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc.
1976-1980: Ủy viên Ban Chấp hành Đảng
bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bắc Thái, Phó Ty Lâm nghiệp tỉnh Bắc
Thái kiêm Chủ nhiệm Công ty Xây dựng Lâm nghiệp rồi Trưởng ty Lâm nghiệp
tỉnh Bắc Thái.
1980-1983: Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bấc Thái, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Thái.
1984-10/1986: Phó bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bắc Thái, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Thái.
11/1986-2/1989: Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bắc Thái.
12/1986: Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nan khóa VI.
3/1989: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
8/1989: Trưởng ban Dân tộc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
1l/1989: Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội
6/1991: Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
9/1992: Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX.
6/1996: Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII. 9/1997: Chủ tịch Quốc
hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X.
1/1998: Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII.
4/2001: Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, được bầu làm Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng.
4/2006: Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam, được tái bầu làm Tổng Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng.”
Nguồn: Website Đảng Cộng sản Việt Nam (1)
Qua tiểu sử của Nông Đức Mạnh, chúng ta
thấy điều gì?
Đó là tại sao một kẻ có gốc gác là một người mới tốt
nghiệp trung cấp nông nghiệp mà có thể “tiến nhanh, tiến mạnh” lên đến
chức Chủ tịch quốc hội rồi Tổng bí thư nhanh đến thế? Và đây là sự thật
về lý lịch của Nông Đức Mạnh – điều đã khiến Mạnh trở nên quyền thế
nhanh chóng trong chế độ cộng sản.
Theo như Nông Đức Mạnh khẳng định, cha mẹ ông ta là ông Nông Văn Lại và bà Hoàng Thị Nhị.
Nông Đức Mạnh còn nói thêm hàng năm tháng ba âm lịch vào dịp tết thanh
minh luôn về quê để tảo mộ cha mẹ (hai người đều mất sớm), và ông còn có
em trai, em gái ở quê (tuy nhiên không ai xác nhận điều này mà chỉ là
do Nông Đức Mạnh nói). Nông Đức Mạnh luôn bác bỏ tin đồn rằng ông là con
của Hồ Chí Minh, và đã trả lời “Ở Việt Nam ai cũng là con cháu Bác Hồ” khi được báo chí hỏi về điều đó. Tạp chí Thế Giới Mới có ghi trong một chú thích rằng mẹ đẻ của Nông Đức Mạnh là Nông Thị Trưng.
Điều đó có đúng không?
Xin trả lời là rất ĐÚNG vì Nông Đức Mạnh là một con rơi trong vô vàn con rơi của Hồ Chí Minh.
Khi Hồ Chí Minh cướp chính quyền thành
công, trở thành người lãnh tụ chính thức của đảng Cộng Sản Việt Nam,
người nữ cán bộ gương mẫu mà Hồ yêu quý, tức Nông Thị Ngác,
lại được cất chức làm Chánh Án Tòa Án Nhân Dân tỉnh Cao Bằng… Hồ Chí
Minh yêu quý Ngác đến độ đặt cho người nữ cán bộ này một tên nữa là Nông Thị Trưng, ý giống như Trưng Trắc, Trưng Nhị vậy. Tin Nông Thị Ngác là ai cũng đã được người dân trong nước bàn tán. ‘Chú Thu’ và ‘Cháu Trưng’ cũng đã được nhắc tới trong các sách tuyên truyền của cộng sản, nhất là các tác giả Trần Khuê, Thép Mới…
Thép Mới kể lại trong “Năng Động Hồ Chí Minh” (trang
48) rằng sau 20 năm ngày rời Pác Bó, ông Hồ trở lại, 1961, lúc này coi
như sự nghiệp khá thành công, ông có thời giờ về thăm lại người cũ, cảnh
xưa. Khi vào nhà thăm gia đình bà Ngác, ông Hồ tiếp xúc với ông Dương Đại Lâm,
người mà trước đây ông Hồ đã gởi gắm Ngác vào gia đình (không nhắc Ngác
đang ở đâu), các cháu vây quanh HCM thân mật… Tác giả còn nhấn mạnh một
trong các cháu đã trở thành ‘thanh niên tuấn tú’ góp phần xây dựng đất
nước.
Cùng sách trên, Thép Mới ghi (trang 43): “Bác
trực tiếp hỏi chuyện, nghe kể về hoàn cảnh gia đình và bản làng đau
khổ, rất thương, nhận làm cháu nuôi, đặt cho bí danh là Trưng, Nông Thị
Trưng. Trưng ở với vợ chồng Đại Lâm, tên tục là Sù, hàng ngày được đến
lán Bác một giờ để Bác chỉ bảo…” Như vậy rất rõ, Nông Thị Ngác có bí danh là Nông Thị Trưng.
* Để chứng minh cho mối quan hệ của bà Ngác
với Hồ Chí Minh mà kết quả của nó là Nông Đức Mạnh tôi xin được trình
bày những tài liệu sau đây.
Thứ nhất, trong “Ho Chi Minh”, tác giả William Duiker – một người thiên tả (thích cộng sản), trang 575, viết: “In April 2001, the ralatively unknown government official Nong Duc Manh, widely rumored to be the illegitimate son of Ho Chi Minh, was elected general secretary of the VCP” (Vietnamese Communist Party- 14).
Số 14 để người đọc lật ra sau cuốn sách đọc tiếp footnote 14: “Nong Duc Manh has denied these rumors, but he concedes that his mother, a member of the Tay ethnic minority, served as Ho’s servant after the latter’s return to Vietnam during the early 1940s…”
Tạm Dịch: “Vào tháng 4, 2001, người
vô danh tên Nông Đức Mạnh chính thức nhậm chức trong cơ quan chính
quyền, dư luận xôn xao bàn tán rộng rãi cho rằng Mạnh là con trai rơi
của Hồ Chí Minh, và ông ta đã được chọn làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản
Việt Nam. Nông Đức Mạnh phủ nhận những tin đồn này, nhưng ông ta lại
công nhận rằng mẹ ông, một thành viên của dân tộc thiểu số Tầy, bà là người phục vụ ông Hồ sau khi ông Hồ trở về Việt Nam vào đầu thập niên 1940.”
Chúng ta cũng biết Nông Đức Mạnh sinh vào
đầu thập niên 40. Báo Time phỏng vấn Mạnh vào 2002 và ghi ông ta được
61 tuổi. Như vậy thì ông Mạnh phải ra đời vào cuối 1941 hoặc 1942.
Sau
ngày sách của Duiker xuất bản, 2000, và cuộc phỏng vấn của báo Time, website của “Đảng CSVN” đã xóa hoàn toàn tiểu sử của ông Nông Đức Mạnh trước đó ghi rõ Nông Đức Mạnh con của “nhà cách mạng Nông Văn Lai và bà Hoàng Thị Nhị”.
Vấn đề đặt ra là tại sao khi có cuốn sách
của Duiker và Time phỏng vấn Nông Đức Mạnh thì tiểu sử phải bị xóa bỏ
trong khi Mạnh là người đứng đầu đảng, việc minh bạch cha mẹ mình trên
website của chính phủ có gì sai? Đó chính là việc minh chứng cho Mạnh
chính là con của bà Ngác và Hồ Chí Minh bị cố tình giấu giếm đi.
Thứ hai, cũng liên quan đến sự việc Hồ có con với bà Ngác và có con trai, tác giả người Nga,Mikhail Vasaep trong cuốn sách được in năm 1986 tại Liên Xô có tên “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” – một học giả, nhà nghiên cứu thuộc phân viện lịch sử đảng cộng sản Liên Xô cũ trong trang 372 “Cũng có những nguồn tin đáng tin cậy từ KGB cho biết có một người con trai của Hồ Chí Minh với người phụ nữ tên Nông Thị Trưng được nuôi nấng bởi một gia đình người dân tộc thiểu số tại Cao Bằng…”
Như vậy có thể khẳng định thêm thông tin
Hồ Chí Minh có con với bà Nông Thi Trưng (Ngác) là hoàn toàn có thật. Và
người con đó chính là Nông Đức Mạnh với những thông tin được nêu ra từ
W. Duiker.
Thứ ba, khi đề cập đến vấn đề quan hệ với bà Nông Thị Trưng thì tác giả Constatin Kostadinov đã giới thiệu ở trên trong cuốn “Những người con của lãnh tụ” xuất bản năm 1984 tại Ba Lan có viết tại trang 92 “Thật ra trong một nghiên cứu cho thấy chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có một mà có những hai con trai nhưng đến nay chưa biết số phận chính trị có giống như người con mang tên Nguyễn Tất Trung hay không…”
Chúng ta nên nhớ vào thời điểm cuốn sách
của ông Kostadinov ấn hành thì Nông Đức Mạnh chưa có những dấu ấn trên
chính trường (năm 1984) nên nhận xét của ông Kostadinov rõ ràng là hợp
lý. Nhưng cũng cho thấy về đứa con của Hồ Chí Minh không chỉ một mà là 2
con trai.
Một là Nguyễn Tất Trung còn một chính là Nông Đức Mạnh.
Thứ tư, chính tác giả Hà Cẩn trong một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang tại trang 135 “Bi kịch tình ái của Hồ Chủ Tịch không chỉ dừng lại ở những bà vợ không được thừa nhận mà còn kể cả 2 người con trai của Chủ Tịch….”
Đến đây ta có thể khẳng định tác giả Hà Cẩn đã ám chỉ về Nguyễn Tất Trung và Nông Đức Mạnh là
con của ông Hồ Chí Minh. Nhưng dù cho có là ai đi nữa thì tác giả cũng
khẳng định Hồ Chí Minh có nhiều con và có nhiều vợ không được thừa nhận.
Và trong đó có Nông Đức Mạnh.
Thứ năm, hãy đọc bài viết của tác giả Lê Văn Tâm như sau:
“Nông Thị Trưng (6 tháng 12 năm 1920 –
26 tháng 1 năm 2003) là một phụ nữ hoạt động cách mạng, theo Việt Minh
trong phong trào chống Pháp ở Việt Nam giữa thế kỷ 20. Bà từng giữ chức
Chánh án Tòa án nhân dân Tỉnh Cao Bằng.
Bà có tên thật là Nông Thị Bày, có
tài liệu ghi Nông Thị Ngát, quê ở huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Theo
hồi ký của thiếu tướng Lê Quảng Ba, Nông Thị Trưng là đội viên du kích
trẻ tuổi nhất trong đội du kích đầu tiên của tỉnh Cao Bằng, do Lê Thiết
Hùng chỉ huy.Trong vòng tám
tháng vào năm 1941-1942, bà đã làm giao liên cho “Già Thu”, bí danh của
Hồ Chí Minh lúc đó. Tên Trưng của bà do “Già Thu” đặt, có ý muốn bà noi
gương Trưng Trắc, Trưng Nhị. Cùng với các đảng viên và nhân dân Hà Quảng
có điều kiện ở gần Hồ Chí Minh, bà đã được ông trực tiếp dạy văn hóa.Bà
được Hồ Chí Minh kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 25 tháng 12
năm 1941. Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên của Cao Bằng sớm tham
gia cách mạng, và trở thành một trong những cán bộ, đảng viên cốt cán
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tờ báo Xuân Phụ Nữ năm Đinh Sửu 1997
xuất bản trong nước một bài viết có tựa đề “Cô Học Trò Nhỏ của Bác Hồ”
được tác giả Thiên Lý viết theo lời kể của chính Nông Thị Trưng có đoạn:
“Tháng 7 năm 1941, được tin (chính quyền) châu Hà Quảng đưa lính cơ tới
bắt, ngay đêm ấy tôi trốn ra rừng, rồi được Châu ủy đem qua Bình Mãng
(Trung Quốc) lánh nạn tại nhà một đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Một hôm đồng chí Lê Quảng Ba và Vũ Anh đến đón tôi từ Trung Quốc về Pắc
Bó gặp Bác.
Về Pắc Bó đã nửa đêm, anh Đại Lâm
người giữ trạm đầu nguồn đưa ngay chúng tôi đi gặp “ông Ké”. Lội ngược
suối càng đi nước càng sâu, khi đến thác thứ ba, anh Đại Lâm thổi sáo,
từ trên thác có thang tre thả xuống. Trèo thang lên, thấy một cái lán
dựng ngay trên bờ suối. Trong lán có ông cụ ngồi đọc sách. Tôi chắp tay
“Cháu chào cụ ạ”. Ông cụ nhìn lên hai mắt rất sáng, ân cần bảo: “Cháu
đến rồi à, cháu ngồi xuống đây nói chuyện. ” Tôi nhìn xuống sàn, thấy
toàn cây to bằng bắp chân. Cụ bảo hai lần tôi mới dám ngồi. Cụ tỉ mỉ hỏi
gia cảnh, rồi khuyên tôi: “Từ nay cháu đã có một gia đình lớn là gia
đình cách mạng, đừng luyến tiếc gia đình nhỏ nữa. Cháu cặm cụi làm ăn
cũng không đủ để nộp sưu thuế đâu. Mình lấy lại được nước rồi từng gia
đình sẽ được đàng hoàng. Từ nay ai hỏi thì cháu nói mình là cháu chú
Thu, tên Trưng”. Bác đặt tên ấy là muốn tôi noi theo gương bà Trưng.”
Nông Thị Trưng đã học tập lý luận cách mạng cùng “Già Thu” trong khoảng 8 tháng.
“Từ đấy tôi ở lại lán anh Đại Lâm,
mỗi ngày vào lán của Bác một giờ để học tập. Bác dạy cho tôi từ chuyện
thế giới, chuyện cộng sản chủ nghĩa đến cả những cách ứng xử thường ngày
như “Đừng làm một việc gì có thể khiến dân mất lòng tin. Mượn một cái
kim, một con dao, một buổi là phải đem trả. Trong ba lô nếu có màn, phải
để ở ngoài cửa, hỏi xem chủ nhà có bằng lòng mới đem vào. Cháu là nữ,
trước bàn thờ có cái giường để các cụ ngồi ăn cỗ, cháu không được
ngồi…”. Tám tháng được Bác chỉ dạy tôi học được hơn cả mấy chục năm học
lý luận tập trung sau này”.
Đoạn hồi ký trên còn được đăng tại Tạp chí Công nghiệp
Khi biết Nông Thị Trưng là người ham
học, hàng ngày lấy than và que để viết chữ và vẽ hình, Hồ Chí Minh đã
gửi cho bà một số vở, bút viết, với bài thơ mà sau này được đưa vào sách
giáo khoa Việt Nam:
Vở này ta tặng cháu yêu ta
Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là
Mong cháu ra công mà học tập
Mai sau cháu giúp nước non nhà
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nguyên thì bài thơ được viết năm 1944 và có tên “Tặng cháu Nông Thị Trưng”.
Hồ Chí Minh cũng tặng Nông Thị Trưng quyển Binh pháp Tôn Tử.
Gia đình
Theo tạp chí Thế Giới Mới, Nông Thị
Trưng là mẹ đẻ của Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ
năm 2001.Sau khi bà qua đời, báo Nhân Dân có đăng tin buồn, lấy từ
TTXVN. Thông báo này cũng từng công bố trên website của báo, ở địa chỉ,
nhưng hiện nay liên kết đến địa chỉ này đã không còn tồn tại”. (2)
Tài liệu nói trên chính là thêm một minh chứng Nông Đức Mạnh là con của Hồ Chí Minh.
Thứ sáu, khi Nông Đức Mạnh được chọn làm Tổng Bí Thư cộng sản thì Đại Sứ Australia là bàSue Boyd – người nổi tiếng là bộc trực, đã hỏi thẳng Mạnh có phải là con của Hồ Chí Minh không? Nông Đức Manh đã trả lời “Ở Việt Nam ai cũng đều là con của Bác”.
Câu trả lời vô thưởng vô phạt này có chủ đích lập lờ để không phải xác
nhận sự thật mà cũng không bị mang tiếng là chối bỏ một sự thật.
Sau đó cũng gần một năm trên tạp chí Time, ấn bản Châu Á phát hành ngày 23/01/2002 tại Hồng Kông- qua cuộc phỏng vấn của ký giả Kay Johnson –
thì Nông Đức Manh lại một lần nữa lên tiếng về thân thế mình, bác bỏ
tin đồn trước đây cho rằng ông ta là con rơi của Hồ và một phụ nữ dân
tộc là Nông Thị Xuân. Nông Đức Mạnh nói: “Tôi phải lập lại và xác
nhận rằng điều đó không đúng sự thật. Tôi có thể nói tên của cha mẹ tôi
nhưng họ đã chết… Nếu có ai nói tôi giống HCM, tôi nghĩ có nhiều người
trông giống người”. Người phỏng vấn hình như vẫn chưa hài lòng với câu trả lời nên lại hỏi: “Nên ông không liên hệ gì với HCM?”. Nông Đức Manh lặp lại: “Tất cả mọi người VN là con của Bác Hồ. Tôi nghĩ toàn thể dân Việt xem HCM là cha tinh thần của họ và tôi cũng thế”.
Tuy nhiên, chính William Duiker đã tường thuật lại, trong cuốn sách viết về Hồ Chí Minh (tái bản lần thứ hai) chuyện Nông Đức Mạnh đã tiết lộ với tác giả rằng “Mẹ tôi, thành viên của dân tộc thiểu số, đã phục dịch cho ông Hồ vào những năm đầu tiên của thập niên 1940…”
Và đó chính là minh chứng kết hợp với các
tài liệu bên trên cho thấy Nông Đức Mạnh chính là con của Hồ Chí Minh.
Đó cũng là lý do vì sao một người dân tộc ít học và cũng bất tài như
Nông Đức Mạnh leo lên những chức vụ cao cấp nhất của cộng sản Việt Nam
một các nhanh chóng.
II. Cha nào con nấy
Hồ Chí Minh được coi là một kẻ độc tài có
nhiều tội ác với dân tộc Việt Nam và bản chất đạo đức đồi bại như giết
vợ, bỏ con…
(Xin xem “Những sự thật không thể chối bỏ – Phần 15”). Và đứa con Nông Đức Manh của Hồ Chí Minh có đạo đức cũng khá giống cha mình.
Nông Đức Mạnh khi vợ còn sống vẫn tằng tịu với một phụ nữ đang có chồng là Đỗ Thị Huyền Tâm và khi mà ông ta chưa mãn tang vợ đã cưới ngay người phụ nữ chưa ly dị chồng này: “Cuối
năm 2010, ngay khi Mẹ tôi lâm bệnh nặng, bà Tâm tìm cách tiếp cận bố
tôi, dùng các thủ đoạn lấy lòng những người xung quanh Bố tôi và đặc
biệt là lái xe riêng của Bố tôi là ông Vũ Văn Sáng (công tác tại Phòng
xe, Văn phòng TW Đảng), thông qua lái xe để nắm các thông tin về gia
đình tôi. Từ đó, bà Tâm tạo được vỏ bọc cảm thông chia sẻ với Bố tôi,
giả tạo tình cảm để lừa gạt và lợi dụng uy tín của Bố tôi.Tại thời điểm
đầu năm 2011, bà Tâm đã có chồng nhưng đã đặt vấn đề tìm hiểu Bố tôi để
tiến đến hôn nhân. Chồng bà Tâm là ông Phạm Tuấn Linh – Đại tá, Phó
Phòng Kế hoạch, Cục Quân nhu – Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc phòng. Tuy
nhiên, cho đến ngày 30/6/2011 bà Tâm mới ly dị chồng.” – Trích thư tố cáo của Nông Bích Liên – con gái của Nông Đức Mạnh gửi báo Người Cao Tuổi (3)
Chuyện con gái ông Mạnh tố cáo và đổ tội
cho bà Tâm “quyến rũ” ông Mạnh cũng là lẽ thường vì con gái một ông tổng
bí không thể làm quá mất mặt cha. Nếu nói tội bà Tâm quyến rũ ông Mạnh
thì cũng không hẳn đúng. Mà cái quan trọng đó là ông Mạnh với cương vị
tổng bí thư đảng “quang vinh, đạo đức” tại sao đang còn vợ mà đi tằng
tịu với phụ nữ đã có chồng con, rồi khi chưa mãn tang vợ đã vồ lấy ngay
người đàn bà này. Đừng đổ hết lỗi cho bà Tâm vì nếu ông Mạnh không đồng ý
và “thích” thì có đến 3 đời bà Tâm cũng chẳng dám và chẳng làm gì được
ông Mạnh. Điều quan trọng hơn là bà Đỗ Thị Huyền Tâm lại là “bồ” của
chính con trai ông Mạnh – Nông Quốc Tuấn. Như vậy là bố cướp bồ của con
trai hay nói cách cụ thể hơn là một dạng đảo điên trong luân thường đạo
đức.
Thông tin từ Vietinfo cho biết: “Người
vợ mới của Nông Đức Mạnh là nữ Đại biểu Quốc hội Đỗ Thị Huyền Tâm sinh
17/10/1966, quê tại Ninh Xá, Bắc Ninh là đại biểu Quốc hội khóa 12 và
khóa 13 kém 3 tuổi so với ông Nông Quốc Tuấn con trai cả của Nông Đức
Mạnh và kém Tổng Nông hơn 26 tuổi. Ngoài ra bà Tâm còn được biết là Tổng
giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Minh Tâm tiền thân là Công ty TNHH
Minh Tâm được thành lập từ năm 2002.
Cách đây khoảng hơn 11 năm, khoảng
tháng 2 năm 2000, Nông Quốc Tuấn mới xuất hiện trên chính trường với
chức vụ Phó Chủ tịch Thường trực Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam. Đó là thời gian sau 12 năm ngồi chơi xơi nước ở Hội Thanh niên
Việt nam kể từ sau khi kết thúc cuộc đời là “công nhân xuất khẩu lao
động”, do bị cha đẻ là ông Nông Đức Manh, khi đó là Bí thư Tỉnh ủy Bắc
Thái bắt buộc phải đi để cai nghiện ma túy tại Singwitz, thuộc CHDC Đức
cũ từ năm 1981 – 1987. Thời gian này (từ năm 2000 – 2003) Nông Quốc Tuấn
có quan hệ tình cảm với Đỗ Thị Huyền Tâm – vợ mới của cha kiểu già nhân
ngãi, non vợ chồng. Mặc dù lúc đó cô Đỗ Thị Huyền Tâm đã từng có gia
đình sau nhiều lần kết hôn và li hôn và tin còn cho biết số vốn điều lệ 5
tỷ đồng ban đầu thành lập công ty TNHH Minh Tâm từ năm 2002 tiền thân
của Công ty Cổ phần Tập đoàn Minh Tâm là do Nông Quốc Tuấn cho bà Tâm
vay trên danh nghĩa cho mượn bao giờ có thì trả.
Bạn bè của Nông Quốc Tuấn cho biết,
cô Đỗ Thị Huyền Tâm thường xuyên qua lại với gia đình cụ Tổng Nông ở
biệt thự 66B Phan Đình Phùng, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà nội
vốn dành riêng cho các cán bộ lãnh đạo cao cấp với tư cách là cô em kết
nghĩa của Nông Quốc Tuấn. Lâu dần trở thành con gái nuôi của Nông Đức
Mạnh. Và khi mà bà Lý Thị Bang – phu nhân Tổng bí thư Nông Đức Mạnh – do
tuổi cao, sức yếu đã dược cụ Tổng Nông cho về ở quê và qua đời ngày
25.10.2010 tại xã Lương Hạ, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. Rồi chính Nông
Đức Mạnh đã cưới cô con gái nuôi thành vợ mới sau này.” (4)
Qua đây chúng ta thấy điều gì? Đó là cha
con Hồ Chí Minh – Nông Đức Mạnh khá giống nhau ở khoản tình duyên và sắc
dục bậy bạ. Đây cũng là một gợi ý để có thể thêm khẳng định Nông Đức
Mạnh thừa hưởng gien của Hồ Chí Minh trong chuyện đời. Nhưng còn chuyện
chính trị và quốc gia thì sao? Xin trả lời là cũng “cha nào con nấy” mà
thôi.
Xin bạn đọc xuống dưới để theo dõi luận điểm này.
III. Bất tài, độc tài và bán nước
Để chứng minh những cái bất tài, độc tài
và bán nước của Nông Đức Mạnh chúng ta nhìn nhận những dẫn chứng dưới
dây để thấy rõ điều đó.
Thứ nhất, Trung
tướng Nguyễn Hòa (sinh năm 1927) là một tướng lĩnh cao cấp của Quân đội
nhân dân Việt Nam, ông là tư lệnh quân đoàn 1 trong chiến dịch Hồ Chí
Minh năm 1975 và là Tổng cục trưởng Tổng cục Dầu Khí đầu tiên (năm
1980). Nguyên ủy viên trung ương đảng khóa V, VI, VII (5).
Chính ông tướng cộng sản này đã tố cáo Nông Đức Mạnh trong bức thư của ông như sau:
“… Nhiệm kỳ qua, đồng chí Nông Đức
Mạnh cũng đã có một số cố gắng. Nhưng xem xét nghiêm túc về một người
đứng đầu Đảng, Nhà nước ta thì đồng chí Mạnh có nhiều lỗi, có nhiều sai
phạm và sai phạm nghiêm trọng.
Một số ví dụ:
– Là Tổng Bí thư, khi đồng chí Đào
Duy Quát bàn về vụ Năm Cam, Bùi Quốc Huy, Trần Mai Hạnh thì đồng chí
Mạnh trả lời rằng hãy khoan, hãy chờ đã. Nhưng khi đồng chí Quát và đồng
chí Hồng Vinh phổ biến lại cho các báo chí, báo chí phản ứng thì đồng
chí Mạnh chối và nói rằng Tổng bí thư không bằng lòng, để cho đồng chí
Hồng Vinh chịu trận.
– Khi báo chí đưa ra vụ Năm Cam v.v…
thì đồng chí Mạnh (đứng đầu Ban Bí thư) triệu tập cuộc họp với Tổng biên
tập các báo uốn nắn răn đe (Điều này cả nước và báo chí đều biết). Đến
lúc xử xong Năm Cam chịu tội tử hình, Bùi Quốc Huy và Trần Mai Hạnh ở tù
thì các cơ quan nội chính lại phải biểu dương báo chí.
– Là người nắm chức vụ cao nhất trong
Đảng nhưng đồng chí Mạnh đưa con của đồng chí Mạnh không đủ tâm, tài
làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên, và có ý định đưa làm Bí thư thứ
nhất Đoàn để cơ cấu vào Trung ương, vừa mưu cầu danh vọng, vừa có dụng ý
gây dựng lực lượng của mình lâu dài trong Đảng.
– Đối với Nguyễn Chí Vịnh, mặc dù một
số đông tướng lĩnh và lão thành cách mạng đòi kiểm tra các tội phạm của
Vịnh xung quanh các vụ Sáu Sứ, T4, trước thềm Đại hội 9, đồng chí Mạnh
vẫn bao che, chỉ giao cho Đảng ủy quân sự Trung ương kiểm tra, không
giao cho Ủy ban kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng kiểm tra.
Vì Đảng ủy quân sự Trung ương điều tra thì đã có ông Phạm Văn Trà bao
che rồi. Khi có thư từ yêu cầu kiểm tra Nguyễn Chí Vịnh gửi đại hội toàn
quân và Ban chấp hành Trung ương thì đồng chí Mạnh cho qua. Đặc biệt
Đảng ủy quân sự Trung ương (đồng chí Mạnh là Bí thư) vẫn đề nghị lên Bộ
Chính trị đề bạt Nguyễn Chí Vịnh làm Thứ tưởng Bộ Quốc phòng, nhờ sự
phản ứng của lão thành cách mạng, tướng lĩnh quân đội và cán bộ, Đảng ủy
quân sự Trung ương mới rút lại đề nghị. Một điều đặc biệt nữa là: đồng
chí Mạnh là Trưởng tiểu ban nhân sự đại hội 10 đã đưa ra thảo luận tại
Bộ Chính trị việc giới thiệu vào Trung ương Nguyễn Chí Vinh, một kẻ ăn
cắp có hệ thống từ khi đi học ở Học viện Kỹ thuật quân sự, một kẻ chưa
được kiểm tra nhiều vấn đề mà nhiễu tướng lĩnh, lão thành cách mạng yêu
cầu. Trong cuộc họp Bộ Chính trị đó, nghe nói 10 đồng chí Ủy viên Bộ
Chính trị đồng ý (trong đó có đồng chí Mạnh), 4 đồng chí không đồng ý.
Như vậy, đồng chí Mạnh đã giới thiệu, đã bỏ phiếu cho Nguyễn Chí Vịnh
một kẻ ăn cắp trước đây, một kẻ tòng phạm phá Đảng thì thử hỏi đồng chí
Mạnh là người như thế nào? May thay, Ban chấp hành Trung ương đã sáng
suốt, số đông đã gạt Nguyễn Chí Vịnh. Nếu Nguyễn Chí Vịnh, do sự bao che
của đồng chí Mạnh được vào Trung ương, cứ thế mà leo mãi, làm chủ nhiệm
Tổng cục Chính trị, rồi làm Tổng bí thư như ông Lê Đức Anh và ông Đỗ
Mười đề xướng thì Đảng ta sẽ bị phá hoại nát, cán bộ trung kiên sẽ bị vu
không và sát hại.
Là Tổng bí thư, đồng chí Mạnh đã bao
che cho ông Đào Đình Bình, trong khi dư luận bất bình với những hành
động mua chức, mua quyền, mua uy tín của ông Bình thì nhân dịp giới
thiệu ông Bình làm Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải đồng chí Mạnh vẫn
kiên trì giới thiệu ông Bình làm Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải mà ngày
nay, cả Quốc hội và người dân đều đã thấy hậu quả, đã thấy ông Bình và
những kẻ thân cận như Bùi Tiến Dũng, Nguyễn Việt Tiến như thế nào?
Là Tổng bí thư, Trưởng tiểu ban nhân
sự Đại hội 10, đồng chí Mạnh đã giới thiệu những kẻ như Bùi Tiến Dũng,
Tổng giám đốc PMU 18 thuộc Bộ Giao thông vận tải và Nguyễn Việt Tiến,
Thứ trưởng Thường trực Bộ Giao thông vận tải vào Trung ương. Như vậy con
người đồng chí Mạnh là thế nào? Có thể làm một người đứng đầu Đảng và
Nhà nước không?
– Là trưởng Tiểu ban nhân sự Đại hội
10, đồng chí Mạnh còn giới thiệu một số người như ông Bắc Sơn, một người
tay sai của ông Lê Đức Anh, hoạt động vô nguyên tắc, được đồng chí Mạnh
định đưa làm Phó Ban Tổ chức Trung ương nhưng bị phản đối, sau đó đưa
về làm Phó bí thư trực Tỉnh ủy Thái Nguyên và được Bộ Chính trị và Tiểu
ban nhân sự (Nông Đức Mạnh đứng đầu) giới thiệu vào tỉnh ủy và giới
thiệu vào Trung ương Đảng.
Đồng chí Mạnh giới thiệu Phan Trung
Kiên, một người đã bị Quân khu 7 phát hiện về nhiều tội, trong đó có tội
tham nhũng. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã báo cáo với Bộ Chính trị
nhưng đồng chí Mạnh, và đôi đồng chí khác trong Bộ Chính trị gạt đi, cho
qua, bao che cho Phan Trung Kiên. Trên thực tế, đồng chí Mạnh đã không
chế Ủy ban Kiểm tra Trung ương, buộc Ủy ban Kiểm tra Trung ương phải
theo quan điểm sai trái của đồng chí Mạnh. Có thể còn một số ví dụ khác.
– Đối với vụ Sáu Sứ, T4. Cơ quan chức
năng đã báo cáo và cung cấp nhiều tài liệu cho đồng chí Mạnh. Nhưng khi
thảo luận vụ này từ năm 2002, đồng chí Mạnh đã gạt vụ Sáu Sứ ra ngoài,
đồng chí Mạnh đã không làm triệt để vụ T4, mà vụ T4 là do cả Cục 12, Cục
11, Viện 70 làm dưới sự chỉ đạo của Vũ Chính. Đồng chí Võ Nguyên Giáp,
đồng chí Lê Khả Phiêu, đồng chí Đỗ Quang Thắng và một số đồng chí lão
thành cách mạng đã có ý kiến không phải một lần.
Trong thư tố cáo của Thượng tướng
Nguyễn Nam Khánh, Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh đã nói rõ từ năm 1996 Vũ
Chính đã vu cáo chính trị đồng chí Võ Nguyên Giáp được sự chỉ đạo của
CIA, năm 1996 phái cấp tiến theo Mỹ đã vào Viện 108 đã nắm đồng chí Phạm
Song nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế, đã có ý đầu độc đồng chí Lê Đức Anh v.v…
Nhưng đồng chí Mạnh phớt lờ, lại chỉ thị cho Ủy ban Kiểm tra Trung ương
kiểm điểm đồng chí Nam Khánh. Vụ đặc tình giả T4 do Tổng cục 2 dựng lên
xuất hiện từ giữa năm 1997 đến giữa năm 1999. Vậy các tin vu khống ấy
xuất hiện từ năm 1996, là do Vũ Chính chỉ đạo được bộ máy giúp việc của
Tổng cục 2 (Cục 12, Cục 11, Viện 70…) thực hiện, sao đồng chí Mạnh lại
bao che? Thư đồng chí Nguyễn Nam Khánh tố cáo các điều sai trái trong
bản báo cáo Bộ Quốc phòng trước Hội nghị Đảng ủy quân sự Trung ương mở
rộng, thì đồng chí Mạnh bao che cho rằng đó chỉ là một cuộc giao ban.
Ai cũng biết trong Quân đội, giao ban
là Ban trực trước bàn giao lại tình hình cho Ban trực sau (hoặc hàng
ngày, hàng tuần, hàng tháng…) được tiến hành trong một thời gian ngắn.
Làm gì có sự giao ban trong toàn quân, họp hết các đầu mối của toàn quân
lại để giao ban, trong cả một ngày. Thực chất cuộc Hội nghị toàn quân
đó rồi các cuộc hội nghị Quân khu Quân đoàn kế tiếp có mời cả Chủ tịch
Hội Cựu chiến binh là lợi dụng “Ngọn cờ chống Mỹ” để đánh vào đồng chí
Nguyễn Nam Khánh, để đưa ra một dư luận đồng chí Nguyễn Nam Khánh có
liên hệ với phái cấp tiến để răn đe lão thành (Đề nghị xem kỹ văn bản
Báo cáo của Bộ Quốc phòng do Tổng cục 2 chuẩn bị vào báo cáo).
Đồng chí Mạnh, chủ trị Bộ Chính trị
và Ban Bí thư lại kết luận rằng: Vũ Chính chỉ có khuyết điểm là quản lý
cán bộ không chặt chẽ. Thực chất Vũ Chính là người chỉ đạo vụ T4, dùng
đặc tình giả để vu khống chính trị gần 30 đồng chí lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước, chia rẽ phá hoại Đảng, huy động bộ máy Tổng cục 2 (gồm Cục 11,
Cục 12, Viện 70…) làm việc đó. Nguyễn Chí Vịnh đã là cán bộ Cục 12
trước đây, tháng 2/1995 phụ trách Cục phó Cục 2, tháng 5/1995 được bổ
nhiệm Cục phó Cục 12, rồi làm Cục trưởng Cục 12, Tổng Cục phó, Tổng cục
trưởng Tổng cục 2…
Tóm lại, qua thực tế việc làm, đồng
chí Mạnh đã không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn là Ủy viên Trung ương,
càng không đủ tiêu chuẩn và uy tín là người đứng đầu Đảng và Nhà nước.
– Đồng chí Mạnh đã “ăn theo” công lao
của các đồng chí khác và vơ vào mình. Công phát triển kinh tế là công
của đồng chí Khải. Công làm luật ở Quốc hội và bước đầu thực hiện quyền
giám sát của Quốc hội là công của đồng chí An, công về nội chính, tư
pháp của Công an, các cơ quan nội chính, của đồng chí Trương Vĩnh Trọng
và đồng chí Trần Đức Lương… Còn ngoại giao thì đồng chí Mạnh đi Pháp, đi
Nga, đi Nhật đều đạt kết quả thấp, nhạt.
Cán bộ, có cả Ủy viên Trung ương nói: đồng chí Mạnh chỉ ăn theo, vô tích sự.
Trong khi đó, việc chính của đồng chí
Mạnh là xây dựng Đảng, thì trải qua một nhiệm kỳ, xây dựng chỉnh đốn
Đảng đạt được kết quả thấp, chưa đạt yêu cầu cơ bản.
– Lãnh đạo chống tham nhũng là một
nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, nhưng không lãnh đạo thực hiện được chống
tham nhũng có hiệu quả. Tham nhũng càng ngày càng nghiêm trọng. Ai chịu
trách nhiệm? Đồng chí Mạnh phải chịu trách nhiệm chính. Đồng chí Mạnh cứ
nói mãi: từng chi bộ, từng cơ sở phải xem xét. Tất nhiên rồi, nhưng
trước hết phải hiểu cơ sở là ai? Phải xem từ Bộ Chính trị, các Ban Cán
sự Đảng ở cấp Trung ương, các ban Thường vụ cấp tỉnh và tương đương.
Chống quan liêu cũng vậy? Ai quan
liêu? Đồng chí Mạnh và một số đồng chí trong Bộ Chính trị là những quan
to và quan liêu của nước ta. Đi thăm các địa phương thì huy động đón
rước, tốn tiền của, tốn thì giờ, chụp ảnh để “đánh bóng”; chỉ nghe báo
cáo, chỉ nói mấy điều ai cũng biết, ai cũng nói được, những vấn đề phức
tạp và xấu không phát hiện được. Đến khi đã xảy ra rồi mới bắt đầu yêu
cầu báo cáo…
– Đạo đức xã hội ngày càng xuống cấp.
– Các vấn đề tồn đọng trong Đảng thì tránh né, bao che, không giải quyết được.
– Trong Bộ Chính trị thì nể nang, xoa dịu, lấy lòng nhau để rồi phô trương là đoàn kết, là dân chủ.
– Thực tế là không lắng nghe tiếng
nói của nhân dân, của đảng viên, kể cả của một số đồng chí lão thành
cách mạng có tâm huyết. Ngược lại tìm cách trù dập, răn đe người phát
hiện tội phạm với cái cớ cho là “làm lộ bí mật”.
– Là Tổng bí thư nhưng không gương
mẫu chấp hành điều lệ, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc của Đảng, như
nguyên tắc về quyền của đảng viên.
– Đầu óc xơ cứng, chỉ đọc những bài
viết sẵn, nói những lời nói công thức, không sáng tạo, không năng động,
không giải quyết những vụ việc nổi cộm, không thể đổi mới đúng hướng và
toàn diện…”
(Đọc nguyên văn bức thư tại: (7)
Đọc qua bức thư của tướng Nguyễn Hòa
chúng ta thấy điều gì? Đó là Nông Đức Mạnh rất bất tài và vô dụng. Đặc
biệt đó là việc đã dung túng cho Nguyễn Chí Vịnh thành lập tổng cục 2 mà
thực chất là cánh tay nối dài của Trung Nam Hải góp phần bán nước cho
Trung cộng nhanh chóng hơn. Bạn đọc có thể đọc thêm bức thư của tướng
cộng sản Nguyễn Nam Khánh để thấy rõ hơn điều này (8)
Thứ hai, hãy
cùng đọc bức thư sau đây của một gia đình là nạn nhân cộng sản đang sống
tại Việt Nam để chúng ta thấy sau năm 1975 đảng cộng sản đã cướp những
gì của nhân dân:
“Kính Gửi: Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh Đảng CSVN
Bộ Chính Trị Trung Ương (TW) đảng CSVN
Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội do đảng CSVN cầm quyền.
Chúng tôi có tên dưới đây:
Huỳnh Ngọc Cảnh, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp AMATA Đồng Nai.
Nguyễn Tấn Hoành, đại diện một số anh chị em Khu Công nghiệp Điện Bàn Quảng Nam.
Nguyễn Tấn Dung, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp Biên Hòa II.
Dương Thái Phong, Huỳnh Tiến, Trương Long, Vũ Hà, Trần Tá, Võ Hải, Nguyễn thị Tuyết, thuộc khu công nghiệp Tân Bình và khu chế xuất Vĩnh Lộc.
Hoàng Anh Tuấn, Công Ty Giày da Gia Định, quốc lộ 13 Thủ Đức, Tp. Saigon.
Thưa quý Ngài lãnh đạo Bộ Chính Trị TW đảng CSVN
Ngày trước miền Nam 1975, gia đình
chúng tôi chưa được cách mạng giải phóng. Cha mẹ chúng tôi có nhà, có
đất làm ăn khấm khá chưa biết làm thuê làm mướn là gì. Trong thời đó
những nhà thương gia Ấn Độ, kỹ sư người Nhật, Hàn Quốc vào miền Nam làm
thuê và mua bán. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào người dân Việt Nam. Sau năm
1975, miền Nam được cách mạng giải phóng khỏi ách nô lệ, đảng hô hào
nâng đỡ và đấu tranh cho hai giai cấp công nhân và nông dân. Chính lá cờ
đảng CSVN thể hiện biểu tượng búa, liềm. Sự thật có phải như vậy không?
Thưa, sự thật rất phũ phàng! Sau khi chiếm được miền Nam là cải tạo
công thương nghiệp, đánh tư sản mại bản thì gia đình chúng tôi bị mất
nhà, mất đất. Trong khi chúng tôi có tiền dư thóc để, thì chúng tôi bị
lấy nhà và bị đuổi đi vùng sâu nước độc để khai phá đất hoang làm ăn. Do
những cơn sốt rét vàng da, có những gia đình chết phân nửa, có những
gia đình phải chết hết. Khi trở về thành phố thì nhà cao cửa rộng, ruộng
vườn của mình thì bị cán bộ đảng viên thu. Điều này chúng tôi có nói
sai đâu. Những villa nhà lầu hiện nay là nhà của đảng viên, thì thử hỏi
cha ông của mấy ông này mua nhà đất từ thời nào để lại cho mấy ông đảng
viên này, nếu không phải cướp của chúng tôi thì từ đâu mà có. Cuộc đời
chúng tôi còn sống thì vẫn còn bị cướp. Đời Cha tôi bị cướp, đời tôi
cũng bị cướp. Những gia đình chúng tôi lên vùng kinh tế mới khai hoang
được vài ba mẫu đất làm ăn, cuộc sống chưa ổn định thì trò cướp bóc lại
theo đuổi theo người dân nghèo chúng tôi, kế đến là chiêu thức kêu gọi
đầu tư rước ngoại bang vào, lại tiếp tục lấy đất của chúng tôi. Bằng
nhiều chiêu thức gạt gẫm lừa bịp gian manh quỷ quyệt, trù dập vu khống
chụp mũ.” (9)
Chúng ta thấy gì trong bức thư trên? Đó
là bức thư tố cáo những kẻ cướp là cộng sản Việt Nam. Không những đời
cha ông mà cho đến đời nay vẫn bị cướp. Bản thân bức thư này gửi cho
Nông Đức Mạnh – lúc đó làm tổng bí thư và Mạnh đã làm ngơ nó. Chứng tỏ
Mạnh cũng bất tài và độc tài cùng với khả năng cướp bóc như tất cả lãnh
đạo cộng sản mà thôi.
Thứ ba, từ một
anh Trung cấp Lâm Nghiệp, Mạnh leo lên chức Tỉnh ủy viên, Phó Ty Lâm
nghiệp, phó chủ tịch, phó tỉnh ủy kiêm chủ tịch rồi bí thư tỉnh ủy Bắc
Thái. Năm 1989, Mạnh về Hà Nội làm Trưởng ban Dân tộc Trung ương đảng
kiêm Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Năm 1991, Mạnh vào Bộ
Chính trị và năm 1992 thành Chủ tịch Quốc hội.
Chín năm sau, năm 2001, giữa lúc các phe
phái kèn cựa nhau, không ai chịu ai, chúng hướng đến giải pháp thứ ba là
đưa tên “đội phá sơn lâm” không có thực quyền vào vị trí cao nhất đảng,
trở thành “đảng trưởng phá sơn hà”! Từ một tên “công nhân lâm nghiệp”
trình độ trung cấp đến một vị trí cao nhất nước, cuộc đời Mạnh cứ ngỡ
như chuyện thần tiên. Đó là do Nông Đức Manh Mạnh là giọt máu của Hồ Chí
Minh. Trở thành người mang danh vị cao nhất của đảng cộng sản, từ nghề
phá sơn lâm Mạnh chuyển sang chuyển sang nghề phá sơn hà. Chỉ đơn giản
nhắc lại hành trình bán nước của Mạnh trong việc cho Tàu vào phá nát
vùng chiến lược Tây Nguyên theo tin tức của “báo đảng”: “Từ ngày 30/5- 2/6/2008, đồng chí Nông Đức Mạnh thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.
Xin bạn đọc chú ý đến thông tin ngắn gọn mà báo đảng trích dẫn về cuộc họp này: “Theo
Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc bao gồm 9 điểm, hai bên bày tỏ hài
lòng trước những thành quả to lớn đã đạt được trong quan hệ láng giềng
hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước trong những năm qua;
khẳng định tình hữu nghị truyền thống Việt-Trung là tài sản quý báu của
hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, cần hết sức gìn giữ và
không ngừng phát huy mạnh mẽ.
Hai bên bày tỏ sẽ tiếp tục ủng hộ và
giúp đỡ lẫn nhau trên các lĩnh vực, tăng cường tin cậy toàn diện lẫn
nhau, đi sâu hợp tác cùng có lợi, thúc đẩy cùng nhau phát triển, thúc
đẩy thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước. Hai bên
tăng cường phối hợp trong các công việc quốc tế và khu vực, cùng nhau
thúc đẩy xây dựng hòa bình lâu dài, cùng phồn vinh ở châu Á và trên thế
giới.
Hai bên nhấn mạnh sẽ tiếp tục duy trì
truyền thống tốt đẹp tiếp xúc mật thiết giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng,
hai nước; tuyên bố thiết lập đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo Việt
Nam – Trung Quốc… Hai bên đồng ý phối hợp chặt chẽ hơn nữa, tích cực
giải quyết các vấn đề còn lại và đẩy nhanh tiến độ công tác, đảm bảo
thực hiện đúng thời hạn mục tiêu hoàn thành toàn bộ công tác phân giới
cắm mốc trên toàn tuyến biên giới trên đất liền trong năm 2008 và sớm ký
văn bản mới về quy chế quản lý biên giới nhằm xây dựng đường biên giới
trên đất liền giữa hai nước thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị,
hợp tác…”.
Nội dung trên trích từ bài báo của Đại sứ quán cộng sản tại Brazil (10).
Nửa năm sau, mãi đến ngày 9.2.2009, Bộ
Ngoại giao CHXHCN Việt Nam mới công bố Tuyên bố chung giữa Mạnh và Hồ
Cẩm Đào trong chuyến đi năm 2008.
Lý do của sự chậm trễ này là một điều
khoản nhỏ mà người dân có thể xem như một hành động bán nước: cho Trung
cộng khai thác bauxite tại Tây Nguyên. Nghĩa là biết chuyện mình làm là
sai nhưng Mạnh vẫn lén lút ký. Lén lút ký nhưng Mạnh biết là không thể
giấu mãi vì sớm muộn gì Tàu cũng vào Tây nguyên, nên phải công bố. Và để
công bố, Mạnh đã phải bỏ ra nửa năm chuẩn bị cho việc bịt miệng và răn
đe báo chí, đưa Nguyễn Tấn Dũng ra dọa: khai thác bauxite là “chủ trương lớn của đảng và nhà nước”.
Lần đầu tiên danh từ bôxít xuất hiện là ngày 3.12.2001 trong “Tuyên
bố chung Việt Nam – Trung Quốc nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh”cụ thể là trong điểm thứ 6:
“6- Hai bên xác định trong thế kỷ mới
cần tiếp tục tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại, khoa
học-kỹ thuật và các lĩnh vực khác giữa hai nước theo phương châm bình
đẳng, cùng có lợi, chú trọng hiệu quả, bổ sung ưu thế cho nhau, hình
thức đa dạng, cùng nhau phát triển; tích cực khuyến khích và ủng hộ các
doanh nghiệp hai bên khai thác thêm thị trường hàng hóa của hai nước,
tăng cường đầu tư và hợp tác, mở rộng quy mô hợp tác kinh tế và kỹ
thuật, thực hiện các dự án hợp tác đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội
thiết thực.
Nhân dịp này, hai bên đã ký Hiệp định
khung giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về việc Trung Quốc cung cấp cho
Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi và Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật
giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ; và nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các
doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít nhôm Đắc Nông.
Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng Trung
Quốc trở thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới. Trung Quốc tích
cực ủng hộ Việt Nam sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới.” – Xem toàn văn tại website của Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ: (11).
Tháng 11.2006, Hồ Cẩm Đào sang Việt Nam chuyến nữa. Lần này thông báo viết: “Từng
bước cải thiện cơ cấu mậu dịch, cố gắng thực hiện phát triển cân bằng
và tăng trưởng bền vững thương mại hai chiều. Tích cực ủng hộ và thúc
đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác lâu dài và cùng có lợi trong các lĩnh
vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, khai thác nguồn nhân
lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác.
Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông…” (12).
Qua đây chúng ta thấy điều gì? Đó là Nông
Đức Mạnh đã bán nước cho Trung cộng thông qua dự án Bô Xít Tây Nguyên.
Đó là bằng chứng không thể chối cãi của kẻ đứng đầu đảng độc tài cộng
sản.
Thứ tư, theo
một tài liệu được tiết lộ bởi Wikileaks thì Vụ Bauxit Tây Nguyên, Nông
Đức Mạnh nhận 300 triệu USD – Nguyễn Tấn Dũng 150 triệu USD là có thật: “Những
chuyển ngân cho gia đình Thủ Tướng Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt đầu vào cuối
năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009 thì tổng số cũng đã lên khoảng gần 150
triệu đô la. Kể từ cuối năm 2001 đã có những giao dịch chuyển ngân hàng
chục triệu đô la từ Trung Quốc sang các tài khoản của gia đình Tổng Bí
Thư Nông Đức Mạnh ở Thụy Sĩ và ở Cayman Islands. Vào thời điểm của điện
văn này là tháng 6 năm 2009 thì tổng số đã chuyển ngân lên tới gần 300
triệu đô la…
Theo tin từ một thân hữu báo chí ở
Norway (Na Uy), một điện văn trong số 250,000 mà WikiLeaks lấy được từ
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và đã giao cho tờ báo buổi chiều lớn nhất Na Uy là
tờ Aftenposten thì có một điện văn liên quan về Việt Nam nói đến dự án
khai thác bô-xít nhôm ở Tây Nguyên.
Nội dung điện văn chính yếu là yêu
cầu Bộ Tài Chính Hoa Kỳ giúp điều tra và xác minh một số giao dịch ngân
hàng quốc tế. Cụ thể, theo điện văn này thì một nguồn tin trong giới
ngân hàng Việt Nam cho biết kể từ cuối năm 2001 đã có những giao dịch
chuyển ngân hàng chục triệu đô la từ Trung Quốc sang các tài khoản của
gia đình Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh ở Thụy Sĩ và ở Cayman Islands. Vào
thời điểm của điện văn này là tháng 6 năm 2009 thì tổng số đã chuyển
ngân lên tới gần 300 triệu đô la.
Cũng trong điện văn này, nguồn tin từ
ngân hàng Việt Nam cho biết những chuyển ngân cho gia đình Thủ Tướng
Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt đầu vào cuối năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009
thì tổng số cũng đã lên khoảng gần 150 triệu đô la. Các chuyển ngân
trong phần của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng thì không đề cập đến ngân hàng
nước nào”. (13).
Mặc dù chưa kiểm chứng được bằng văn bản
công khai của Wikileaks nhưng việc đàn áp biểu tình chống Trung
cộng(Trong đó có chống khai thác Boxit Tây Nguyên), lặng im xem các ý
kiến phản đối của nhiều quan chức như Đặng Hùng Võ, nhóm 72 và
nhiều tổ chức, cá nhân khác của cộng sản Việt Nam có thể xem là bằng
chứng về việc cộng sản nhận tiền và cho giặc Tầu vào làm boxit tại Việt
Nam. Một minh chứng đặc biệt cho việc này là TS Cù Huy Hà Vũđã
vào tù vì việc chống lại chủ trương cho Trung cộng khai thác Boxit Tây
Nguyên. Người ta nếu không nhận tiền bán nước thì không thể bỏ tù một
tiến sỹ Luật, con của một đại công thần cộng sản vì một lý do lãng nhách
nào khác.
Thứ năm, sự bất
tài và phá đảng, bán nước của Nông Đức Mạnh còn được RFA tổng hợp trên
một bài báo có phỏng vấn nhiều người trong đó có quan chức cộng sản và
nhà báo Bùi Tín – một cựu cộng sản như sau: “Ông Bùi Tín kể: Lá thư
của ông Giáp được rất nhiều vị tướng, từ ông Chu Huy Mân đến một số vị
thiếu tướng, đặc biệt ông Nguyễn Nam Khánh hết sức ủng hộ. Do đó trước
Đại hội 10, năm 2005, Ông Nông Đức Mạnh bị buộc phải tổ chức ra một ban,
gọi là Ban Kiểm tra liên ngành đặc biệt, gồm đại diện của: Tòa án nhân
dân Tối cao, Viện Kiểm sát Tối cao, Bộ Tư pháp, Ban Bảo vệ Trung ương,
Cục Bảo vệ Quân đội, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính,… lên đến
hơn 20 người. Ban Kiểm tra liên ngành đã làm việc và đã có một báo cáo-
mà tôi được biết là dày đến 70 trang – hoàn thành trước Đại hội 10.
Trước khi Đại hội 10 họp thì ông Tổng bí thư Nông Đức Mạnh cùng với Bộ
Chính trị lúc đó có một sáng kiến là ỉm báo cáo này đi. Họ cho là báo
cáo này nguy hiểm quá. Nếu trong Đảng và nhân dân được biết thì có thể
tạo ra sự đảo lộn rất lớn về chính trị. Ông ấy viện cớ là nếu phổ biến,
trung ương mà biết, đại hội mà biết thì gia đình, bạn bè họ đều biết thì
khó có thể giữ được bí mật. Cho nên ông Nông Đức Mạnh mới thuyết phục
Bộ Chính trị, thuyết phục Ban Chấp hành Trung ương trước Đại hội 10 là
không phổ biến báo cáo tuyệt mật đó. Ông ấy yêu cầu là do sự ổn định của
chế độ, ổn định của Đảng, coi như Bộ Chính trị khóa trước đã xem và coi
như đã giải quyết xong xuôi. Hủy báo cáo này đi, coi như báo cáo này
không có.” (14).
Thứ sáu, trong
thời kỳ của mình Nông Đức Mạnh cũng là một kẻ độc tài phá dân chủ. Hàng
loạt tên tuổi lớn đấu tranh cho tự do dân chủ bị Nông Đức Mạnh cùng Võ
Văn Kiệt và sau này là Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng đàn áp hoặc cho
vào tù như: Tạ Phong Tần, Nguyễn Văn Hải – Điếu Cày, đàn áp Khối 8406
đấu tranh ôn hòa cho dân chủ tại Việt Nam… Như vậy Mạnh chính là một kẻ
thù của dân chủ và tự do tại Việt Nam. Mạnh cũng giống như các lãnh đạo
cộng sản khác rất bất tài nhưng độc ác và độc tài.
Chính Nông Đức Mạnh đã chỉ đạo ra “Nghị quyết 36/CP” ngày
26/3/2004 của Bộ chính trị cộng sản để gọi kẻ cựu thù là khúc ruột ngàn
dặm, một bộ phận không thể tách rời. Đến nay ai cũng biết đó là nghị
quyết vừa để rút ruột những người Việt tị nạn cộng sản. Vừa để cho phép
đánh phá phong trào tự do thông qua chiêu bài “hòa hợp, hòa giải”. (15)
IV. Kết Luận
Một đứa con rơi của Hồ Chí Minh nên đã
nhanh chóng từ một kẻ thất học leo dễ dàng lên ngai vua để tham nhũng và
vơ vét tài sản của nhân dân. Chính Nông Đức Mạnh cũng là kẻ kéo thêm
dân tộc Việt vào vòng xoáy nô lệ cho Trung cộng mà cha ông ta là Hồ Chí
Minh đã chỉ đạo cho các tầng lớp lãnh đạo cộng sản sau này. Chế độ cộng
sản luôn sản sinh ra những ký sinh trùng đục khoét, bán nước và hại dân
như Nông Đức Mạnh. Cần nhìn thẳng vào sự thật lịch sử để thấy cộng sản
là không thể sửa chữa mà chỉ có thể gạt bỏ. Đó chính là một Việt Nam
tươi sáng tương lại khi không còn ách thống trị của băng đảng cộng sản
bạo quyền.
10/09/2013
Đặng Chí Hùng
No comments:
Post a Comment