(Gửi các đảng viên CS, các đồng chí cũ)
Tôi từng ở trong Đảng CS từ tuổi 20, ở trong Đảng 44 năm, 65 tuổi mới
thoát Đảng, trở thành người tự do 25 năm nay. Có người bảo là quá chậm,
còn chê vui là "sao mà ngu lâu thế!", nhưng tôi chỉ mỉm cười, tự nhủ
mình ngu lâu thật, nhưng vẫn còn sớm hơn hàng triệu đảng viên hiện còn
mang thẻ đảng viên CS cuối mùa. Nghĩ mà tội nghiệp cho các đồng chí cũ
của tôi quá, sao lại có thể ngu mê, ngủ mê lâu đến vậy.
Năm nay tôi tự làm "cuộc kỷ niệm" độc đáo, về thời điểm cuộc đời tôi,
đến năm nay 2015, tính ra đã đạt một nửa đời (20 năm đầu đời cộng với 25
năm ở nước ngoài) là 45 năm không có dính dáng gì đến đảng CS. Tôi đã
lãng phí gần nửa đời người - gần 45 năm cho những hoạt động lầm lỡ, sai
trái, tệ hại vì hoàn cảnh khắc nghiệt của lịch sử, cũng do sự u mê, ngu
lâu của bản thân mình.
Nhân kỷ niệm riêng độc đáo này, tôi nghĩ đến vô vàn đồng chí CS cũ của
tôi, và viết bài này gửi đến các bạn như một buổi nói chuyện cởi mở, tâm
huyết, mong được trao đổi rộng rãi với các bạn cũng như với các bạn trẻ
trong Đoàn Thanh niên CS mang tên ông Hồ Chí Minh.
Câu chuyện sẽ xoay quanh hai chữ: Giác ngộ.
Giác ngộ là hai chữ tôi nghe rất nhiều lần khi được tuyên truyền về Đảng
CS, về chủ nghĩa CS. Các vị đàn anh giải thích con người tốt phải là
con người giác ngộ. Giác ngộ có nghĩa là nhận ra lý tưởng cho cuộc đời
minh. Tuổi trẻ cần có lý tưởng, hiểu rõ con đường cần chọn, hiểu rõ tổ
chức cần tham gia, không bỏ phí cuộc đời minh. Đó là con đường Cộng Sản,
dẫn đến độc lập cho đất nước, hạnh phúc cho toàn dân, họ rao giảng
triền miên như thế, chúng tôi cũng cả tin là thế thật.
Theo học các chương trinh và lớp học cho đảng viên mới, cho cán bộ sơ
cấp, trung cấp, cao cấp của đảng, bao giờ giảng viên cũng nhắc đến hai
chữ giác ngộ. Học, học nữa, học mãi để nâng cao không ngừng trình độ
giác ngộ của mỗi người. Đảng viên phải có trình độ giác ngộ cao hơn quần
chúng ngoài đảng. Đảng viên mới luôn được học kỹ tấm gương của anh
thanh niên Lý Tự Trọng, với nét nổi bật nhất là giác ngộ CS từ tuổi
thiếu niên, rồi biết bao tấm gương của những chiến sỹ CS ưu tú, bất
khuất trong các nhà tù thực dân ở Côn Đảo, Sơn La, Lao Bảo, Kon Tum...
giác ngộ cách mang cao, nhà tù, máy chém không nao núng, biến nhà tù
thành trường học nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, bất khuất, kiên
cường.
Trong các bản khai lý lịch cá nhân, mỗi đảng viên thường kể lại bản thân
mình được giác ngộ ra sao, được ai giác ngộ, giác ngộ đến mức nào, và
luôn kết luận với lời hứa không ngừng học tập, tu luyện, tự phê bình và
phê bình để không ngừng nâng cao trinh độ giác ngộ của bản thân.
Tôi kể ra như thế để thấy hai chữ giác ngộ có tác dụng sâu sắc ra sao
đối với mỗi đảng viên CS. Hai mươi nhăm năm nay, tôi hồi tưởng lại quãng
đời 44 năm là đảng viên CS, theo dõi chặt chẽ thời cuộc hằng ngày trong
nước và thế giới, tôi không khỏi cảm thấy chua chát và cay đắng về hai
chữ giác ngộ.
Giác ngộ hình như là một chữ Đảng CS mượn của Đạo Phật. “Giác” là nhận
thấy, cảm nhận, thấy rõ, “ngộ” là tỉnh ra, nhận ra lẽ phải, chân lý để
làm theo.
Sau khi là con người tự do, là nhà báo tự do, kết thân với nhiều nhà báo
tự do của thế giới, các nhà báo tự do Pháp, Đức, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Trung Hoa, Ba Lan, Tiệp..., tôi tìm đọc các kho tư liệu lưu trữ quý ở
Paris, Moscow, London, Washington… rồi suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo
của mình, của riêng mình, không sùng bái bất cứ một người hay một học
thuyết nào. Từ đó tôi giác ngộ không biết bao nhiêu điều mới mẻ, và lần
này tôi thật sự có cảm giác sâu sắc về hạnh phúc tinh thần tiếp cận được
ngày càng nhiều sự thật, lẽ phải, chân lý. Tôi đã tự giác ngộ mình.
Nhìn lại 44 năm quá khứ CS của mình, tôi nhận rõ có không ít điều tôi
giác ngộ, cho là đúng, thì khốn thay, hầu hết đều là lầm lẫn, ngộ nhận,
ảo tưởng, sai lầm và cả tội ác.
Như chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản kiểu mác-xít đều là những học thuyết chủ quan, lầm lẫn, hoàn toàn
nguy hại trong thực tế, cổ xúy đấu tranh giai cấp cực đoan và bạo lực,
đi đến chiến tranh, khủng bố, đổ máu, hận thù. Giữa thủ đô Washington,
tôi cùng anh Cù Huy Hà Vũ đã viếng Tượng đài Kỷ niệm hơn 100 triệu nạn
nhân bi thảm của chủ nghĩa CS hiện thực, trong đó có hàng triệu nạn nhân
đồng bào Việt ta. Tượng đài nhắn nhủ toàn nhân loại hay cảnh giác với
chủ nghĩa CS, tai họa của toàn thế giới.
Tháng 5/2015, Tổng thống Ukraine, một nước cộng sản cũ, đã ký Luật cấm
tuyên truyền về chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản như trong thời kỳ trong Liên bang Xô Viết từ 1917 đến 1991, coi đó
là thời kỳ bi thảm, sai lầm và Tội Ác. Các tượng đài, di tích thời kỳ ấy
đều bị phá bỏ. Các sự kiện ấy giúp tôi khẳng định việc thoát đảng CS
của tôi là chuẩn xác và giúp tôi thấy Dự thảo văn kiện sẽ đưa ra Đại hội
XII sắp đến là lạc hậu, lẩm cẩm và cực kỳ nguy hại cho đất nước, cho
nhân dân, cho chính Đảng CS ra sao.
Tôi không thể hiểu vì sao, sau khi Giáo sư Trần Phương, từng là Phó Thủ
tướng, là ủy viên Trung ương Đảng, đã chứng minh rành mạch rằng chủ
nghĩa Mác, Lênin, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa CS đều là ảo tưởng sai
lầm, nguy hại, hay vì sao sau khi đương kim Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư
Bùi Quang Vinh đã công khai cho rằng: "Cái chủ nghĩa Xã hội và cái định
hướng Xã hội chủ nghĩa làm gì có trong thực tế mà đi tim cho mất
công!", vậy mà Bộ Chính trị vẫn cứ khẳng định trong văn kiện Đại hội XII
rằng " kiên định chủ nghĩa Mác, Lênin, kiên định chủ nghĩa Xã hội và
chủ nghĩa CS là lập trường không thể thay đổi ", một thái độ ngoan cố,
cổ hủ, tối tăm, buộc toàn đảng phải đi theo sự lẩm cẩm dai đẳng nguy hại
của minh.
Ngay đối với thần tượng Hồ Chí Minh, tuy tôi biết rằng đây là bình phong
cố thủ lợi hại của thế lực bảo thủ trong đảng CS do tệ sùng bái cá nhân
ăn quá sâu trong quần chúng, tôi vẫn thấy cần và có thể thuyết phục
ngày càng đông đảo bà con ta nhận ra sự thật. Sự thật là ông HCM không
phải là thánh thần. Ông là con người với những tốt xấu, mạnh yếu, đúng
sai của minh. Ông đã lầm lẫn khi chọn con đường CS, khi lao quá sâu rồi
không dám quay lại nữa. Ông đã xa rời lập trường dân tộc, thực hiện lập
trường giai cấp cực đoan, đặt ảo tưởng vào giai cấp vô sản quốc tế, và
mù quáng đặt niềm tin ở 2 ông Anh lớn Stalin và Mao, 2 con Quỷ Đỏ mà ông
cho là “không bao giờ có thể sai”.
Mới đây, có 2 sự kiện minh họa rõ thêm bản chất con người thật HCM. Nhà
báo Trần Đĩnh từng gần gũi ông Hồ kể lại ông từng cho rằng không thể
giết bà Năm - Cát Hanh Long để mở đầu cuộc Cải cách Ruộng đất, bà lại là
ân nhân của đảng CS, - ông còn văn hoa nói: "Không nên đánh phụ nữ dù
chỉ bằng một cành hoa". Vậy mà theo Trần Đĩnh, chính ông Hồ đã viết bản
Cáo trạng kết án Bà Năm:"Địa chủ ác ghê", ký tên CB (của Bác- Bác Hồ)
trên báo Nhân Dân của Đảng. Cũng theo Trần Đĩnh, ông Hồ đã cải trang,
mang kính râm đích thân đến dự cuộc xử bắn bà Năm. Vậy ông Hồ là con
người thế nào? Nói một đằng làm một nẻo, lá mặt lá trái, tử tế hay không
tử tế? đạo đức hay vô đạo đức?
Nhà triết học uyên bác bậc nhất nước ta Trần Đức Thảo trước khi từ giã
cõi trần đã kể trong cuốn Những lời trăng trối (do nhà báo Tri Vũ Phan
Ngọc Khuê ghi âm) rằng ông đã gặp ông Hồ, quan sát, nghiên cứu sâu về tư
tưởng, hành vi, đạo đức của ông Hồ, và đi đến kết luận vững chắc rằng
ông Hồ là "con Người muôn mặt, lắm mưu mô, nhiều tham vọng quyền lực,
nhiều điều bí hiểm, lắm tên nhiều họ, ẩn hiện khôn lường, lắm vợ, nhiều
con, rất phức tạp", là một "Tào Tháo của muôn đời". Ông Trần Đức Thảo
cho rằng đảng CS kêu gọi cả nước học tập đạo đức HCM, vậy là muốn biến
cả nước thành Tào Tháo hết cả ư! Thế thật thì nguy cho dân tộc ta quá! Ý
kiến của nhà triết học này thật thỏa đáng.
Tôi có nhiều lý do để quí trọng ông Hồ. Tôi từng gặp ông khá nhiều lần,
khi là phóng viên thời sự quốc tế, vào Dinh Chủ tịch dự chiêu đãi ông
Lưu Thiếu Kỳ, ông Alexei Kosigyn hay các nhà báo Pháp, Nga, Trung Quốc.
Năm 1957 khi ông vào Vinh thăm bộ đội Quân khu IV tôi được giao chuẩn bị
bài nói chuyện của ông trước cán bộ quân khu, khen ngợi thành tích giúp
dân gặt lúa, chống bão, lụt và diễn tập ở giới tuyến, ông liếc qua bản
viết, khen đãi bôi: "Chú văn hay chữ tốt nhỉ!" rồi đút vào túi. Hơn nữa,
cha tôi có quan hệ mật thiết với ông Hồ. Ông từng ngỏ lời mời cha tôi
ra tham chính từ những ngày đầu Cách mang tháng Tám. Cha tôi lưỡng lự,
do quan niệm Nho giáo "Trung thần không theo hai Vua", nhưng ông Hồ vẫn
cử ông Bộ trưởng Tư pháp Vũ Trọng Khánh, rồi ông Vũ Đình Huỳnh mang thư
riêng đến. Chính ông Hồ đề cử cha tôi thay Cụ Nguyễn Văn Tố làm nhiệm vụ
Chủ tịch Quốc hội sau khi Cụ Tố bị lính Pháp bắn chết. Nhưng tôi không
thể vì những chuyện riêng tư ấy mà làm sai lạc sự đánh giá công bằng,
khách quan, chuẩn xác của chính mình.
Không một học thuyết nào, không một cá nhân lãnh tụ nào có thể được đặt
trên dân tộc và nhân dân. Do yêu nước thật lòng, thương đồng bào Việt
mình thật lòng nên sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, tôi đi đến kết luận dứt
khoát, sòng phẳng rằng ông HCM là một nhân vật tiêu cực trong lịch sử
VN. Ông có phần trách nhiệm lớn làm cho đất nước lâm vào chiến tranh, do
ông chọn con đường CS của Đệ Tam Quốc tế nên mới bị thế giới Dân chủ
sớm đặt VN ta trong Chiến lược Be bờ ngăn chặn CNCS (Containment of
Communism Strategy). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông dựng lên thật
ra không phải là chế độ dân chủ, mà còn là chế độ độc đoán toàn trị do
đảng CS độc quyền cai trị, đến nay vẫn chưa có tự do ngôn luận, tự do
ứng cử và bầu cử, tự do xuất nhập cảnh, tự do tôn giáo, không thực hiện
chế độ pháp quyền nghiêm minh, đảng CS nắm trọn cả ba quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp, còn thêm quyền thứ tư là ngôn quyền. Các tổ chức xã
hội dân sự tự phát đang lớn mạnh cùng các nhà dân chủ từ lão thành đến
trẻ tuổi đang cùng các cựu đảng viên CS đã thoát đảng tự đặt cho mình
nghĩa vụ trước Dân tộc và Lịch Sử chung sức mở ra Kỷ Nguyên Dân chủ và
Tự Do cho nước Việt Nam ta.
Tôi tha thiết kêu gọi tất cả các đảng viên CS nhân các cuộc họp Đại hội
Đảng các cấp từ chi bộ, đảng bộ cơ sở đến Đại Hội toàn quốc hãy thắp
sáng lên ngọn đèn Giác ngộ mới mẻ, manh dạn xóa bỏ những điều giác ngộ
cũ kỹ, lạc hậu, giáo điều, lẩm cẩm, mê muội rất có hại, như kiên trì chủ
nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mác-xít, sùng
bái nhân vật HCM, kiên trì chế độ toàn trị độc đảng lạc lõng, tệ hại.
Đó chính là sự giác ngộ cần thiết cấp bách hiện nay. Trong các cuộc họp
bàn, góp ý vào các văn kiện dự thảo, chớ bị lừa dối khi nghe lãnh đạo
tuyên truyền rằng các văn kiện đã tiếp thu hàng triệu ý kiến xây dựng,
đã được nhất trí cao, không cần bổ sung, sửa chữa gì nhiêu, "do kẻ xấu
và bọn phản động xúi giục". Cần nhận rõ nội dung các văn kiện mới là
điều kiện sinh tử của đảng, quan trọng hơn vấn đề nhân sự nhiều, vì vận
mệnh đất nước, quyền lợi của toàn dân phụ thuộc vào học thuyết chính
trị, vào đường lối đối nội, đối ngoại, vào các quốc sách chính trị, kinh
tế tài chính, đối ngoại, xã hội và văn hóa đạo đức. Kiên quyết từ bỏ,
gột rửa những điều giác ngộ cũ, nhận rõ đó chỉ là những học thuyết sai
lầm tệ hại trong thực tế cuộc sống, những tà thuyết đã bị thế giới nhận
diện, lên án, loại bỏ, ta không có một lý do nào để gắn bó, quyến luyến,
tiếc thương.
Xin các bạn chớ sợ mình đơn độc, thiểu số trong các cuộc họp. Chân lý
ban đầu bao giờ cũng là thế. Các bạn chính là những hạt kim cương trong
khối quặng đen. Hãy dũng cảm thắp lên ngọn đèn giác ngộ mới, tiên tiến.
Các bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc sâu lắng khi dần dần chính kiến của bạn
được lan tỏa trở thành chân lý, sự giác ngộ của số đông.
Buổi tâm sự về hai chữ giác ngộ xin tạm ngừng ở đây, mong có ích trong
khêu gợi những ý kiến mới mẻ trong tư duy của các bạn về hiện tình đất
nước, về con đường cần chọn cho dân tộc, cho Quê hương, để đất nước phát
triển mạnh mẽ trong cuộc sống tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho mỗi công
dân, mỗi gia đình chung hưởng.
Tái bút: Xin đề nghị các mạng blog tự do, lề trái, và
bạn đọc có điều kiện nhân bản bài viết này và gửi cho các đảng viên CS
quen biết, nhân Đại hội Đảng các cấp thảo luận các văn kiện dự thảo cho
Đại Hội Đảng Toàn quốc lần thứ XII đầu năm 2016. Xin đa tạ. B.T.
No comments:
Post a Comment