Tóm
Lược: Trong phần thứ nhì của bài có hai phần, tác giả Cù Huy
Hà Vũ lý luận rằng đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) phải giải
thể để cứu nước. Tuy câu kết luận này có thể có chút giá
trị, nhiều lý luận và kết luận của ông trong phần thứ nhất
lại sai lầm hoàn toàn. Đại khái, các khẳng định của ông, kể
cả câu không có xâm lăng và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) không phải
là một quốc gia, là các khẳng định sai lầm. Quan trọng hơn, lý
luận rằng không có việc mất nước và ngày 30 tháng 4 không nên
là ngày quốc hận cho thấy ông kém hiểu biết về người Việt
hải ngoại (NVHN) và dân Việt Nam chống cộng, nhất là người
miền Nam, đang sống ở Việt Nam. Trên thực tế, cảm xúc mất nước
của họ lúc nào cũng có thật vì quả thật VNCH bị phe cộng
sản Việt Nam chiếm đóng. Ngày quốc hận được kỷ niệm không
phải chỉ thương tiếc sự mất niềm tự do và dân chủ, mà còn
đánh dấu sự khởi đầu của giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử
Việt Nam.
*
Cù Huy Hà Vũ (2015), người Việt Nam bất đồng chính kiến và
học giả tại trường Đại Học George Washington, gần đây viết một
bài đăng trên trang mạng của Voice of America, ban tiếng Việt. Đại
khái, bài của ông có thể được chia ra thành hai phần. Trong
phần thứ nhất, ông lý luận rằng ngày 30 tháng 4 không nên là
ngày quốc hận trong các cộng đổng NVHN. Trong phần thứ nhì, ông
lý luận rằng tuy không nên có ngày quốc hận, chính quyền cộng
sản Việt Nam là thủ phạm đã gây ra hận thù vì bản chất họ.
Do đó, giải thể ĐCSVN là cách duy nhất để cứu đất nước Việt
Nam và xóa bỏ mọi hận thù trong người dân Việt.
Tuy phần kết luận của bài luận có thể có chút giá trị, có nhiều vấn đề trong phần đầu.
A. Bài của ông Vũ thiếu mạch lạc vì hai phần không có liên kết luận lý
Ta có thể nhận ra ngay một sự bất bình thường trong bài ông
Vũ: phần thứ nhất và phần thứ nhì chẳng có liên hệ gì với
nhau cả. Mỗi phần có thể đứng một mình có luận lý, nhưng mỗi
phần không cần phải cung cấp tiền đề cho, hoặc dùng kết luận
từ, phần kia. Ông Vũ cố móc nối hai phần bằng một kết nối
nghĩa ngữ; nghĩa là chữ "hận." Tuy nhiên, chữ "hận" không liên
kết hai phần với nhau theo luận lý.
Một bài luận văn trình bày có các phần không liên hệ nhau được
gọi là thiếu mạch lạc hoặc không chặt chẽ. Không có gì nghiêm
trọng về một bài luận trình bày thiếu mạch lạc. Cùng lắm
người ta có thể nói tác giả bài luận là người viết dở. Tuy
nhiên, khi bài luận chính trị có một chuỗi lý luận trong đó
kết luận của một lý luận là tiền đề của lý luận kế tiếp,
dẫn đến kết luận cuối cùng, có một sự nguy hiểm về việc
thiếu mạch lạc. Sự nguy hiểm đó là độc giả thiếu cẩn thận
có thể quá hứng chí với câu kết luận cuối cùng của bài luận
mà tưởng mọi chuyện trong bài luận đều đúng hết. Khi một bài
có hai phần như bài của ông Vũ, các kết luận sai lầm của
phần thứ nhất có thể bị che khuất, hoặc diễn giải là đúng do
bởi cái kết luận có vẻ đúng trong phần thứ nhì.
Cái kết luận rằng việc giải thể ĐCSVN là cách duy nhất để
cứu nước Việt Nam và xóa bỏ mọi hận thù trong dân Việt quá
hấp dẫn và nhử nhiều người Việt đến độ họ có thể tưởng, đôi
khi trong tiềm thức, rằng các lý luận và kết luận ở phần
đầu là đúng, nhất là kết luận rằng không nên có ngày quốc
hận trong cộng đồng NVHN.
Do đó, rất quan trọng mà vạch ra các lập luận và kết luận sai
lạc trong phần đầu của bài ông Vũ để tránh hiểu lầm hoặc
lẫn lộn và để "giữ mọi việc chính xác." Trong bài này, tôi
sẽ không thảo luận về phần thứ nhì trong bài ông Vũ mà chỉ
chú trọng vào phần thứ nhất.
B. Phần thứ nhất trong bài ông Vũ đầy rẫy sai lầm và không chính xác, dẫn đến những kết luận không đúng.
Trong phần thứ nhất, ông Vũ dựa lập luận ông trên hai tiền đề:
(1) hành động xâm lăng chỉ có thể được thực hiện bởi một nước
hay quốc gia với một nước hay quốc gia khác, (2) Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH) ở miền Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ở miền
Bắc chỉ là hai vùng lãnh thổ của quốc gia Việt Nam và không
phải là quốc gia hoặc nước, dựa vào quan điểm chính thống của
VNCH. Tiền đề (2) là kết luận của lý luận có hai tiền đề:
(3) Không câu nào trong hai Hiến pháp của VNCH khẳng định rằng
"quốc gia hoặc nước" chỉ gồm có miền Nam Việt Nam, và (4) Nam
Việt Nam có dự tính thống nhất đất nước.
Dựa vào (1) và (2), ông Vũ kết luận rằng miền Bắc không xâm
lăng miền Nam vì hành động xâm lăng chỉ có thể được thực hiện
bởi một quốc gia hoặc nước với một quốc gia hoặc nước khác,
và cả miền Bắc lẫn miền Nam đều không phải là quốc gia hay
nước. Ông Vũ sau đó cho rằng vì không có xâm lăng và không có
quốc gia hay nước, nên không có mất nước. Từ đó, ông Vũ kết
luận là ngày 30 tháng 4 không nên gọi là "Ngày Quốc Hận" ("The
National Day of Hatred") ("Cũng như vậy, không thể gọi ngày 30 tháng 4
là 'Ngày Quốc hận' vì đã không có chuyện 'mất nước' vào ngày đó.") Ông
Vũ hỗ trợ kết luận này bằng lý luận rằng sau ngày 30 tháng 4
năm 1975, quốc gia hoặc nước Việt Nam vẫn hiện hữu trên bản đồ
thế giới, là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, và có quan
hệ ngoại giao với nhiều quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ ("Thực vậy,
cho đến nay Việt Nam vẫn có tên trên bản đồ thế giới, là thành viên
Liên Hiệp Quốc, có quan hệ ngoại giao với nhiều nước trong đó có Hoa Kỳ,
cho dù lãnh thổ đã bị Trung Quốc chiếm nhiều nơi, nhất là ở biển
Đông.")
Các lý luận của ông Vũ sai lầm trên ít nhất bốn khía cạnh:
định nghĩa của xâm lăng, tính chất quốc gia của miền Nam Việt
Nam hoặc VNCH, việc mất nước, và ý nghĩa của ngày quốc hận.
Bất cứ một trong những lý luận hoặc kết luận của ông có thể
làm toàn thể chuỗi lý luận ông vô giá trị. Tuy nhiên, tôi không
chỉ muốn cho thấy một lập luận hoặc kết luận nào đó sai lầm
Tôi muốn cho thấy toàn thể khái niệm của ông Vũ về quốc gia
hoặc nước, sự mất nước, và Ngày Quốc Hận là sai lầm.
1. Xâm lăng là một chiến dịch quân sự dính líu thực thể
địa chính, không nhất thiết chỉ dính líu quốc gia có chủ
quyền hoặc nước.
Tiền đề của ông Vũ rằng hành động xâm lăng chỉ có thể được
thực hiện bởi một quốc gia hoặc nước với một quốc gia hoặc
nước khác là một tiền đề sai lầm.
Theo định nghĩa, xâm lăng "là một cuộc tấn công quân sự trong đó
một số lớn chiến sĩ của một thực thể địa chính hung hăng
tiến vào lãnh thổ kiểm soát bởi một thực thể khác, thường
với mục tiêu chinh phục, giải thoát hoặc tái thiết lập kiểm
soát hoặc quyền hành trên một lãnh thổ, ép buộc chia đất
nước, thay đổi chính quyền có sẵn, hoặc đạt được nhượng bộ
từ chính quyền đó, hoặc một kết hợp mọi việc trên" (Wikipedia
2015a).
Xâm lăng, do đó, không nhất thiết dính líu đến một hay nhiều
quốc gia/ nước. Bất cứ một chiến dịch quân sự rộng lớn nào
bởi một thực thể với ý định chiếm đóng một lãnh thổ đang
được chiếm đóng bởi một thực thể khác đều được gọi là "xâm
lăng." Những chiến dịch quân sự tiến hành bởi quân Bắc Việt
chống lại miền Nam trong chiến tranh Việt Nam và dẫn đến sự
chiếm đóng miền Nam tạo nên một cuộc xâm lăng, cho dù miền Bắc
Việt Nam hoặc miền Nam Việt Nam là quốc gia/ nước hay không.
Cho dù miền Bắc và miền Nam Việt Nam là hai phe trong một cuộc
nội chiến, một luận đề mà ông Vũ muốn đưa ra, những chiến
dịch quân sự của Bắc Việt vẫn được gọi là "xâm lăng" vì "lực
lượng vũ trang của họ tiến vào phần qui định rõ rệt của
[miền Nam Việt Nam] mà, vào lúc chiến dịch, hoàn toàn dưới sự
kiểm soát của lực lượng vũ trang của [miền Nam Việt Nam]"
(Wikipedia 2015a). Thí dụ cho các cuộc xâm lăng như vậy là các
chiến dịch quân sự tiến hành trong Chiến Tranh Cách Mạng Mỹ và
Cuộc Nội Chiến Mỹ (sđd.).
Trên thực tế, như mọi tài liệu lịch sử sho thấy, Hồ Chí Minh
và các đồng chí, kể cả Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp, thực hiện
một kế hoạch hệ thống để xâm lăng Nam Việt Nam qua nhiều năm
trong suốt cuộc chiến.
Trong suốt những năm này và sau cuộc
chiến, sử gia thế giới và người miền Nam, dân sự hay quân sự,
đều gọi những chiến dịch quân sự hoặc tấn công của cộng sản
Bắc Việt là hành động xâm lăng. Xem, thí dụ như, "Viên chức Nam
Việt Nam tuyên bố hai đại đội quân Bắc Việt xâm lăng Nam Việt
Nam" (History), "Cuộc xâm lăng thông thường này . . . là một sự
khác biệt căn bản với các cuộc tấn công của quân Bắc Việt
trước đó" (Wikipedia 2015f), "Phần đầu của đoạn kết đến vào
đầu tháng ba năm 1975 khi lực lượng xâm lăng lên đến hai mươi sư
đoàn được tung ra cho cuộc tấn công cuối cùng của chiến tranh"
(Sorley 1999, 376).
Định nghĩa sai lầm của ông Vũ về "xâm lăng" thực ra không quan
trọng vì cho dù xâm lăng dính líu đến một quốc gia hay một
thực thể địa chính, Nam Việt Nam là một quốc gia có chủ quyền
đầy đủ trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 như được thảo luận sau
đây.
2. Trong cuộc chiến, miền Nam Việt Nam là một quốc gia có chủ quyền hay một nước
Khó mà có định nghĩa rõ rệt về nước, quốc gia có chủ quyền,
hoặc dân tộc một cách tổng quát. Tôi sẽ thảo luận vấn đề
này trong một bài kế tiếp. Tuy nhiên, thật dễ dàng chứng minh
rằng miền Nam Việt Nam, hoặc VNCH, là một quốc gia có chủ
quyền hoặc một nước trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Trước hết, ông Vũ lý luận rằng nhóm chữ "Việt Nam Cộng Hòa"
chỉ nói đến danh xưng của thể chế chính trị, và không phải là
tên của quốc gia hoặc nước Nam Việt Nam, như được cho biết trong
hiến pháp VNCH. Tuy việc này không quan trọng trong việc phân
tích, tôi duy trì rằng "miền Nam Việt Nam" và "Việt Nam Cộng
Hòa" thiết yếu nói về cùng một quốc gia có chủ quyề̀n hay
nước bởi vì trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, chế độ của VNCH
giữ y nguyên tại miền Nam và do đó hai tên này đồng nghĩa.
Trong phần lý luận chính, ông Vũ nhấn mạnh rằng không câu nào
trong cả hai [1956 và 1967] Hiến pháp của VNCH khẳng định rằng
"quốc gia hoặc nước" chỉ gồm có miền Nam Việt Nam (". . . không
có câu nào của cả hai Hiến pháp trên quy định 'quốc gia' chỉ gồm miền
Nam Việt Nam.")
Bằng cách dùng hai hiến pháp của VNCH và các dự tính khác
(thí dụ như nỗ lực thống nhất), ông Vũ khẳng định rằng "theo
quan điểm chính thống của Việt Nam Cộng hòa thì ở Việt Nam chỉ có một
quốc gia, miền Nam và miền Bắc chỉ là hai phần lãnh thổ của quốc gia
Viêt Nam." Trên căn bản này, ông Vũ kết luận rằng không có xâm
lăng vì cả miền Bắc và miền Nam đều không là quốc gia hoặc
nước; do đó, không có việc mất nước và ngày 30 tháng 4 không
thể là ngày quốc hận.
Các lý luận của ông Vũ, cho rằng VNCH không phải là một quốc
gia hoặc nước, là các lý luận không có giá trị hoặc sai lầm
trên ít nhất ba lý do: (1) tự mâu thuẫn, (2) ngụy biện (sai lầm
luận lý), và (3) tiêu chuẩn khách quan về tính chất quốc gia.
Bất kỳ một trong ba lý do này đều đủ để làm cho lý luận ông
Vũ vô giá trị.
a. Ông Vũ mâu thuẫn với chính mình khi ông gọi Nam Hàn là
quốc gia hoặc nước mặc dù Nam Hàn và Nam Việt Nam có cùng căn
bản hiến pháp mà ông dùng để chối bỏ tính chất quốc gia của
Nam Việt Nam.
Khi chứng minh Nam Việt Nam không phải là một quốc gia hoặc
nước, ông Vũ dùng đường lối chủ quan, nghĩa là ông dùng quan
điểm dùng bởi Nam Việt Nam. (Ta sẽ thấy sự diễn giải của ông
về quan điểm của Nam Việt Nam là sai lầm.) Dựa vào hai hiến
pháp của Nam Việt Nam và các dự tính thống nhất đất nước như
cho thấy qua các câu in trên tem hoặc phát biểu bởi các cấp
lãnh đạo Nam Việt Nam, ông Vũ kết luận là Nam Việt Nam không bao
giờ tự coi mình là quốc gia hoặc nước và chỉ coi toàn thể
Việt Nam là quốc gia có chủ quyền. Do đó, cả Bắc lẫn Nam Việt
Nam chỉ là hai phần lãnh thổ của đất nước.
Dùng y hệt các tiêu chuẩn do ông Vũ đặt ra, ta có thể kết luận
dễ dàng là Nam Hàn hiện nay không phải là một quốc gia và
cũng không phải là một quốc gia hay nước trong cuộc chiến tranh
với Bắc Hàn trong 1950-1953.
Hiến pháp của Nam Hàn được viết lần ̣đầu vào năm 1948 và được
chỉnh sửa nhiều lần. Điều 3 của Hiến pháp tuyên bố, "Lãnh
thổ của Cộng Hòa Đại Hàn gồm có bán đảo Đại Hàn và các
đảo lân cận" (Constitute 2015). Điều 4 tuyên bố thêm, "Cộng Hòa
Đại Hàn theo đuổi thống nhất đất nước và thiết lập và thực
hành chính sách thống nhất ôn hòa dựa vào các nguyên tắc về
tự do và dân chủ" (sđd.) Nói cách khác, Hiến pháp của
Nam Hàn còn dùng lời lẽ mạnh bạo và rõ rệt hơn cả ngôn từ
trong hai hiến pháp VNCH qua định nghĩa không lầm lẫn lãnh thổ
là cả bán đảo Đại Hàn và các đảo lân cận, chứ không phải
chỉ có phần miền Nam. Ngoài ra, Hiến pháp Nam Hàn tuyên bố rõ
rệt nỗ lực thống nhất. Nỗ lực thống nhất của Nam Hàn, do đó,
được phát biểu rõ rệt trong Hiến pháp, chứ không phải chỉ
được ám chỉ qua các câu in trên tem hoặc tuyên bố bởi cấp lãnh
đạo.
Vì vậy, dựa vào chính các tiêu chuẩn của ông Vũ, Nam Hàn không phải là một quốc gia hoặc một nước.
Tuy nhiên, trong bài, ông Vũ khẳng định rằng Bắc Hàn và Nam Hàn
là hai quốc gia hoặc nước trong cuộc chiến tranh từ 1950 tới
1953. Ông viết, "Nói cách khác, chiến tranh Nam - Bắc Việt Nam giai
đoạn từ 1955 đến 30/4/1975 là một cuộc nội chiến và vì vậy không phải là
chiến tranh giữa hai quốc gia, giữa hai 'nước', tương tự như những gì
đã diễn ra giữa miền Nam và miền Bắc bán đảo Triều Tiên từ 1950 đến
1953."
Qua việc khẳng định Nam Hàn là một quốc gia hoặc nước trong khi
Nam Việt Nam không có cùng tính chất mặc dù cả hai "lãnh thổ"
có cùng căn bản hiến pháp theo các tiêu chuẩn định nghĩa của
chính mình, ông Vũ tự mâu thuẫn. Nói cách khác, ông Vũ bác bỏ
lý luận của chính mình.
b. Lý luận của ông Vũ dựa vào hai hiến pháp VNCH và dự tính thống nhất có một sai lầm luận lý (ngụy biện):
Lý luận của ông Vũ dựa vào hai hiến pháp VNCH là một lý luận
sai lầm và chẳng qua là một sai lầm luận lý hoặc ngụy biện.
Thực ra có nhiều sai lầm luận lý trong lý luận ông Vũ, kể cả
sai lầm qui thức (formal fallacies) và các sai lầm không qui thức
(informal fallacies) như lý luận do thiếu hiểu biết (argument from
ignorance), so sánh khập khiễng (false analogy), so sánh nối dài
(extended analogy), tiêu chuẩn khác biệt (different standards), và
không dẫn/đưa đến (non-sequitur). Vì giới hạn, tôi sẽ chỉ chú
trọng đến "không dẫn đến" và đề cập ngắn gọn về các sai lầm
khác.
Ngụy biện "không dẫn đến" thường được mô tả là "cái mà không
suy ra." Nói cách khác, cái được đưa ra là bằng chứng hoặc lý
do chẳng dính líu đến hoặc hỗ trợ rất ít cho kết luận (Bo
Bennett). Thí dụ: Hôm nay trời mưa; vì vậy, hai đường song song.
Dựa vào "không có câu nào của cả hai Hiến pháp trên quy định 'quốc
gia' chỉ gồm miền Nam Việt Nam" và các nỗ lực thống nhất của
VNCH, ông Vũ khẳng định "theo quan điểm chính thống của Việt Nam Cộng
hòa thì ở Việt Nam chỉ có một quốc gia, miền Nam và miền Bắc chỉ là hai
phần lãnh thổ của quốc gia Viêt Nam."
Đặt A = "Hai hiến pháp VNCH," B = "quan điểm chính thống của
VNCH," X = "chỉ miền Nam Việt Nam được qui định quốc gia," Y = "toàn
thể Việt Nam được qui định quốc gia," và Z = "dự tính thống
nhất của VNCH."
Cái mà ông Vũ lý luận là: Vì: (a) A không cho thấy X, và (b) Z hiện hữu, nên B là Y.
Ta thấy ngay không có liên kết gì giữa cái đưa ra làm bằng chứng và câu kết luận.
A và B chẳng có liên hệ gì với nhau. Cái mà hiến pháp mô tả
không nhất thiết là quan điểm chính thống của dân về tính chất
quốc gia của nước họ (hoặc, theo ông Vũ, cộng đồng hoặc vùng
họ). Theo định nghỉa, "hiến pháp là một số những nguyên tắc
căn bản hoặc tiền lệ đã được thiết lập theo đó một quốc gia
hoặc tổ chức khác được quản trị" (Wikipedia 2015b). Bản hiến
pháp xác định các luật lệ tối cao và/hoặc cơ cấu của quốc
gia hoặc tổ chức. Điều đó không có nghĩa là bản hiến pháp
không thể định nghĩa điều kiện hay tính chất của quốc gia hoặc
tổ chức, nhưng nếu không có định nghĩa đó, ta không thể kết
luận gì về điều kiện hay tính chất của tổ chức.
X và Y cũng chẳng có liên hệ gì với nhau. Cùng lắm, X là tập
hợp con (subset) của Y, nhưng ta không thể kết luận rằng nếu
không có bằng chứng của X (hoặc cho dù cho cái mà ông Vũ muốn,
"có bằng chứng cho việc không có X"), thì phải có Y. Ngay cả
khi ta cho ông Vũ A = B (nghĩa là cái hiến pháp VNCH mô tả là
quan điểm chính thống của VNCH), ta vẫn không thể suy ra Y từ X
hoặc không phải X. Nói cách khác, ta không thể nói, "Nếu quan
điểm chính thống của VNCH không nói rằng chỉ có Nam Việt Nam
là quốc gia/ nước, thì quan điểm chính thống của VNCH phải là
toàn thể VNCH là quốc gia/ nước." Đó là vì có nhiều kết luận
khác ta có thể có giả sử không phải chỉ có Nam Việt Nam là
quốc gia. Thí dụ, cả Bắc và Nam Việt Nam đều là quốc gia,
hoặc toàn thể Việt Nam cũng không phải là quốc gia, hoặc chỉ
có Bắc Việt Nam là quốc gia.
Ngay cả nếu ta bao gồm Z = "dự tính thống nhất của VNCH," vẫn
có thiếu móc nối cho thấy "không phải X + Z = Y." Nói cách
khác, giả sử hai hiến pháp VNCH không cho thấy chỉ có miền Nam
Việt Nam được qui định là quốc gia và có dự tính thống nhất,
ta không thể kết luận rằng quan điểm chính thống của VNCH là
toàn thể Việt Nam được qui định là quốc gia. Đó là vì tính
chất quốc gia độc lập với gia tăng lãnh thổ hoặc thống nhất.
Một quốc gia có thể là một quốc gia và sau này kết hợp hoặc
thống nhất với một quốc gia khác hoặc một vùng để trở thành
một quốc gia rộng lớn hơn. Ngoài ra, một vùng của một quốc gia
có thể bị chiếm đóng bởi một phe nhóm khiến cho lãnh thổ
của nó bị giảm thiểu thành một phần nhỏ hơn, và phần nhỏ hơn
này do đó là một quốc gia.
Lý luận của ông Vũ dường như dựa vào sự kiện rằng Nam Việt
Nam là quốc gia và toàn thể Việt Nam là quốc gia là hai sự
kiện loại trừ lẫn nhau. Cái sai lầm của quan điểm này là tính
chất quốc gia của Nam Việt Nam và Việt Nam không cần phải xảy
ra cùng lúc. Nói cách khác, có hai diễn giải cho việc Nam Việt
Nam và toàn thể Việt Nam có thể là quốc gia, nhưng không cùng
lúc:
(1) Nam Việt Nam là quốc gia và toàn thể Việt Nam sẽ trở thành
quốc gia khi Nam Việt Nam xóa bỏ phe cộng sản chiếm đóng Bắc
Việt Nam.
(2) Toàn thể Việt Nam đã là quốc gia, nhưng lãnh thổ bị phe
cộng sản chiếm đóng ở miền Bắc. Do đó, lãnh thổ Việt Nam bây
giờ bị giảm thiểu thành Nam Việt Nam. Nam Việt Nam là quốc gia
vì thừa kế tính chất quốc gia từ Việt Nam.
Ta thấy, một trong hai, hoặc cả hai, diễn giải trên đều là kết luận thích đáng dựa vào lịch sử.
Tóm lại, giả sử A không đề cập X và Z hiện hữu, cái kết luận
rằng B là Y là một bước nhảy luận lý khổng lồ. Cái kết
luận này không suy ra từ A, X, và Z. Lý luận của ông Vũ, do đó,
là ngụy biện "không dẫn đến."
Lý luận của ông Vũ còn có các ngụy biện hoặc sai lầm luận lý khác. Tôi có thể vắn tắt đề cập vài cái.
Một sai lầm luận lý qui thức là dùng sai phần bù của tập hợp
con: vì Nam Việt Nam là một tập hợp con của toàn thể Việt
Nam, phần bù của việc Nam Việt Nam là quốc gia khác với việc
toàn thể Việt Nam là quốc gia.
Một sai lầm khác là so sánh khập khiễng. Ông Vũ đồng hóa "đề
cập" với "khẳng định." Hai hiến pháp VNCH không đề cập rằng
chỉ có Nam Việt Nam là quốc gia, nhưng "không đề cập" không
giống như "không khẳng định." Một người có thể không đề cập ông
ta giàu có, nhưng việc đó không giống như việc ông ta không
khẳng định rằng ông ta giàu có.
Một sai lầm khác là dùng các tiêu chuẩn khác nhau. Dưới tiêu
chuẩn thứ nhất, ông Vũ dùng hai hiến pháp VNCH là bằng chứng
rằng VNCH không khẳng định là chỉ có VNCH là quốc gia. Tuy
nhiên, trong tiêu chuẩn thứ hai, ông dùng hai hiến pháp VNCH cộng
với dự tính thống nhất là bằng chứng cho việc VNCH coi toàn
thể Việt Nam là quốc gia. Nếu ông ta dùng cùng tiêu chuẩn thứ
nhất, rõ ràng là hai hiến pháp VNCH cũng không khẳng định chỉ
có toàn thể Việt Nam là quốc gia, và cộng với bằng chứng rõ
ràng là miền Bắc Việt Nam bị phe cộng sản chiếm đóng, ta phải
kết luận rằng Nam Việt Nam là quốc gia. Dự tính thống nhất
lại càng tăng thêm ý này cho việc lấy lại đất bị cộng sản
chiếm đóng.
c. Dưới tiêu chuẩn khách quan, Nam Việt Nam được coi là quốc
gia có chủ quyền dựa vào là thành viên của nhiều tổ chức
quốc tế và liên hệ ngoại giao với nhiều quộc gia.
Đường lối chủ quan của ông Vũ trong việc xét đoán tính chất
quốc gia của VNCH thì không thích hợp. Tính chất quốc gia của
một dân tộc được xác định bằng một tiêu chuẩn khách quan,
nghĩa là tính chất quốc gia như được thấy bởi các quốc gia
khác. Nếu không, mọi dân tộc đều có thể là quốc gia có chủ
quyền bằng cách chỉ cần tuyên bố như vậy. Bill Gates không thể
chối bỏ sự giàu có của mình chỉ bằng cách tuyên bố, "Tôi
nghèo." Dưới tiêu chuẩn khách quan, một điều kiện quan trọng để
là quốc gia có chủ quyền hoặc nước là khả năng có quyền lực
tối cao để đối phó với các nước hoặc quốc gia có chủ quyền
khác. Việc này gồm có sự công nhận từ các nước khác và sự
tham gia vào các công việc quốc tế.
Mặc dù không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc (LHQ), cả
Bắc Việt và Nam Việt Nam đều được các quốc gia khác coi là
quốc gia có chủ quyền (Xem, thí dụ như, Wikipedia 2015c. Ngoài
ra, LHQ coi Nam Việt Nam, hoặc VNCH, là quốc gia có chủ quyền khi
tổ chức này bầu để đề nghị Nam Việt Nam được nhận là thành
viên. Vào ngày 28 tháng 2 năm 1957, Đại Hội đồng (General
Assembly) LHQ " bầu với số phiếu 40 thuận và 8 chống hoặc phiếu
trắng, đề nghị Hội đồng Bảo an rằng VNCH và Nam Hàn được
nhận là thành viên (Olsen 2006, 75). Ngoài ra, Liên Xô luôn luôn coi
Nam và Bắc Việt Nam là hai quốc gia độc lập (sđd.) Nam
Việt Nam cũng là thành viên của nhiều cơ quan quốc tế kể cả
World Bank, International Monetary Fund, Interpol, UNESCO, v.v.
(Wikipedia 2015d). Nam Việt Nam có liên hệ ngoại giao với nhiều
nước kể cả Hoa Kỳ, Pháp, Tây Đức, Úc, Tân Tây Lan, Nam Hàn, và
các nước khác,
Con số lớn về thành viên quốc tế và liên hệ ngoại giao của Nam
Việt Nam với các quốc gia khác rõ ràng cho thấy Nam Việt Nam
quả thực là một nước hoặc một quốc gia có chủ quyền.
Tóm lại, lý luận của ông Vũ về tính chất quốc gia của Nam
Việt Nam hoàn toàn vô giá trị vì tự mâu thuẫn và là sai lầm
luận lý. Theo các tiêu chuẩn khách quan được mọi nơi chấp nhận,
VNCH là một quốc gia có chủ quyền hoặc nước trước ngày 30
tháng 4 năm 1975.
3. Quả thật có việc mất nước dựa vào căn bản gắn bó tình
cảm và hiện hữu vật chất khi mìền Nam Việt Nam rơi vào tay
cộng sản.
Sau khi cố chứng tỏ Nam Việt Nam không phải là nước hoặc quốc
gia và phe cộng sản Việt Nam không xâm lăng miền Nam Việt Nam, ông
Vũ kết luận là không có việc mất nước vì không có nước để
mà mất. Một cách đáng kể, trong khi ông cố hết sức để cho
thấy dự tính thống nhất của VNCH, ông Vũ chỉ kết luận đơn
giản là không có việc mất nước như thể đó là chuyện hiển
nhiên. Điều này cho thấy sự kém hiểu biết của ông Vũ về khái
niệm của mất mát, ngay cả cho ý nghĩa thông thường.
Theo định nghĩa, mất mát là kết quả của việc không thể giữ
hoặc không thể tiếp tục có cái gì hoặc trải qua việc có cái
gì bị lấy đi hoặc bị tiêu hủy. Đối với đa số người miền Nam,
nước Nam Việt Nam bị mất khi phe cộng sản miền Bắc xâm lăng và
chiếm đóng miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cho
dù Nam Việt Nam không phải là quốc gia và chỉ có toàn thể
Việt Nam là quốc gia, như ông Vũ khẳng định, người dân miền Nam
Việt Nam vẫn có thể có cảm tưởng mất mát khi toàn thể quốc
gia Việt Nam rơi vào tay cộng sản.
Cảm tưởng mất mát được dựa vào: sự gắn bó tình cảm và sự hiện hữu vật chất.
a. Mất nước hàm ý sự hư hại đến gắn bó tình cảm với đất
nước bây giờ đang ở dưới chế độ không xứng đáng, và không nhất
thiết dính líu đến sự thiếu vắng hoặc biến mất của một
hiện hữu vật chất.
Mất mát thường được liên kết với sở hữu, thu thập, cảm giác
thuộc về, hoặc thương yêu. Bạn mất tiền, xe hơi, xe gắn máy,
nhà, việc, bình tĩnh, người thương yêu, v.v. Cái hoặc người bạn
mất có thể hoặc không ngừng hiện hữu. Nếu nhà bạn bị tiêu
hủy hoàn toàn vì hỏa hoạn, bạn mất nhà và căn nhà bạn không
còn nữa. Tuy nhiên, giả sử bạn không còn tiền để trả tiền nợ
nhà, nhà băng tịch thu lại và bán cho người khác. Bạn mất nhà
nhưng căn nhà đó vẫn hiện hữu; chỉ có điều là nó thuộc về
chủ mới.
Khi ta nói về mất mát cái gì hoặc người nào, ta có thể nói
đến cái đó hoặc người đó như là một thực thể vật chất, nhưng
sự mất mát có thể hàm ý sự hư hại cho một niềm gắn bó tinh
thần hay tình cảm. Sự gắn bó tình cảm vẫn có thể còn, nhưng
đối tượng cho sự gắn bó đó có thể không còn trong tầm với,
kiểm soát, cảm tưởng thuộc về, hoặc sở hữu. Ta, do đó, có
cảm tưởng mất mát và thương tiếc những kỷ niệm liên quan đến
cái đó hoặc người đó. Khi bạn mất nhà vì bạn không có đủ
tiền trả tiền nợ nhà, bạn vẫn thương yêu căn nhà bạn và vẫn
có thể thấy nó mỗi khi bạn đi ngang qua, nhưng bạn không thể
sống trong căn nhà đó. Bạn có cảm tưởng mất mát và thương yêu
những kỷ niệm sống trong căn nhà. Cảm tưởng mất mát lại còn
gia tăng hơn nếu chủ nhà mới phá hủy những gì bạn coi là
thiêng liêng hoặc quý báu. Bạn đau lòng khi chủ mới bán vườn
sau nhà cho người hàng xóm, bê trễ tưới nước cho vườn hoa từng
đẹp đẽ và cây cối, hoặc không màng đến chăm sóc thảm cỏ trước
nhà.
Tương tự, mất nước không hàm ý nước đã bị tiêu hủy, ngừng
hiện hữu, hoặc bị xóa bỏ trên bản đồ thế giới. Khi người
miền Nam Việt Nam, hải ngoại hay trong nước, nói họ mất nước,
cái họ có ý nói là nước Nam Việt Nam không còn trong tầm với,
kiểm soát, hoặc cảm giác thuộc về bởi vì nó đã bị chiếm
đóng, kiểm soát, và cai trị bởi những người không xứng đáng
và không có cùng các lý tưởng và giá trị như họ. Lòng yêu
thương nước họ vẫn còn, nhưng họ có cảm tưởng mất mát vì
nhóm người cầm quyền ngược đãi và lạm dụng dân và lãnh thổ,
và hủy hoại những giá trị quí trọng với họ, như nhân quyền,
tự do, và dân chủ.
Khái niệm trên về mất nước là khái niệm căn bản. Hầu như ai
cũng biết. Kỳ lạ thay, ông Vũ dường như không biết, hoặc ông
biết nhưng bỏ qua. Thay vào đó, khi lý luận rằng nước không bị
mất, ông viết, "Thực vậy, cho đến nay Việt Nam vẫn có tên trên bản đồ
thế giới, là thành viên Liên Hiệp Quốc, có quan hệ ngoại giao với nhiều
nước trong đó có Hoa Kỳ, cho dù lãnh thổ đã bị Trung Quốc chiếm nhiều
nơi, nhất là ở biển Đông."
Quái lạ là ông Vũ dựa vào các yếu tố như tên trên bản đồ thế
giới và liên hệ ngoại giao với các nước khác là bằng chứng
cho sự hiện hữu của một nước hay quốc gia, nhưng lại chối bỏ
Nam Việt Nam là một nước hay quốc gia mặc dù trước ngày 30
tháng 4 năm 1975 Nam Việt Nam rõ ràng có tên trên bản đồ thế
giới và có liên hệ ngoại giao với nhiều nước kể cả Hoa Kỷ,
như đã thảo luận ở trên. Cái yếu tố duy nhất mà Nam Việt Nam
(và cả Bắc Việt Nam) không có là thành viên trong LHQ. Nhưng nếu
đó là ý ông Vũ, nghĩa là thành viên trong LHQ là điề̀u kiện
duy nhất, hoặc quan trọng nhất, cho việc là quốc gia, thì theo
như ông, Thụy Sĩ không là một quốc gia cho tới năm 2002 khi Thụy
Sĩ trở thành thành viên LHQ. Đó rõ ràng là một kết luận không
thích đáng. Quan trọng hơn, như thảo luận trên, ông Vũ mâu thuẫn
với chính ông khi ông khẳng định Bắc Hàn và Nam Hàn là hai
quốc gia hoặc nước trong chiến tranh từ 1950 tới 1953, mặc dù
cả Bắc Hàn lẫn Nam Hàn đều không là thành viên LHQ cho tới năm
1991.
b. Mất nước cũng hàm ý không có hiện hữu vật chất khi nước Nam Việt Nam bị phe cộng sản miền Bắc chiếm đóng
Trong khi đa số người miền Nam Việt Nam nói đến mất nước với ý
nghĩa tinh thần và tình cảm, cũng có người nói đến nó là
sự thiếu thốn hiện hữu vật chất. Nhưng sự hiện hữu vật chất
này không liên hệ đến đất đai, núi non, sông ngòi, biển cả,
đảo, v.v. Thay vì vậy, nó liên hệ đến các khái niệm cụ thể
về chủ quyền tài sản, quyền lợi, và các giá trị có biểu
hiện cụ thể (thí dụ như quốc kỳ VNCH và quốc ca). Chữ "nước"
trong "mất nước" hàm ý quốc gia có chủ quyển Nam Việt Nam,
hoặc VNCH. Như thảo luận trên, VNCH là một nước hay quốc gia có
chủ quyền, không những chỉ với người nước ngoài, mà còn hơn
thế nữa với những công dân trước đây của Nam Việt Nam.
Sự hiện hữu vật chất gồm có thẩm quyền cụ thể or quyền lực
kiểm soát dân và lãnh thổ, sở hữu tài sản, và nhiều nữa.
Cộng sản Việt Nam tấn công và chiếm đóng Nam Việt Nam bằng
lực, lấy đi thẩm quyền và quyền lực, đặt sở hữu trên tài
sản, tư và công. Đối với nhiều người Nam Việt Nam, mất nhà,
đất đai, tài sản, tự do, khả năng bầu người đại diện trong
việc quản trị nước, và các giá trị khác giống y như mất
nước.
Tóm lại, quả thật có việc mất nước đối với người miền Nam
Việt Nam, cho dù cảm tưởng mất mát này là tinh thần hay vật
chất.
4. Ngày 30 tháng 4 là và lúc nào cũng sẽ là ngày quốc hận ngay cả sau khi chế độ cộng sản bị xụp đổ
Ta hãy trước hết giải quyết vài vấn đề về định nghĩa và
dịch. Ý nghĩa của từ ngữ "quốc hận" quan trọng vì nó phản
ảnh tâm trạng của người miền Nam, hải ngoại hay trong nước, về
sự mất mát của quốc gia có chủ quyền VNCH. Ngoài ra, nó cũng
phản ảnh thích đáng sự tưởng niệm ngày cuối cùng của quốc
gia có chủ quyền VNCH và khởi đầu của giai đoạn đen tối nhất
trong lịch sử Việt Nam. Tôi muốn nhấn mạnh là quốc gia có chủ
quyền VNCH xụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhưng VNCH vẫn
còn sống và phát huy mạnh mẽ là một nước, tuy bị chiếm đóng,
và là một dân tộc, và sẽ trở thành quốc gia có chủ quyền
lần nữa với toàn thể Việt Nam là lãnh thổ khi chế độ cộng
sản xụp đổ trong tương lai rất gần.
a. Từ ngữ "ngày quốc hận" nên được dịch là "national day of
hatred" vì nó mô tả chính xác nỗi căm hờn sâu đậm đối với
cộng sản Việt Nam cho những gì chúng làm với Việt Nam.
Từ ngữ tiếng Anh "National Day of Hatred" là từ ngữ dịch sát
nghĩa cho tiếng Việt "Ngày Quốc Hận." Nên để ý là "National Day of
Hatred" theo đúng tiếng Anh hơn "National Hatred Day." Các từ ngữ
dịch khác gồm có "National Shame Day" (hoặc "National Day of
Shame") (Nguyen and Haines 1996, 320), "National Anger Day" (hoặc
"National Day of Anger"), "National Day of Anger" (Trần Văn Tích), "Day
of National Resentment," và "Day of Commemoration" (DiMaggio and
Fernandez-Kelly 2010, 213).
Trong tiếng Việt, chữ "quốc" có nghĩa "country" hay "nation." (Tôi
sẽ thảo luận chi tiết hơn về định nghĩa của các chữ này
trong bài kế tiếp.) Dùng là tính từ, "quốc" có nghĩa
"national." Chữ "hận" hơi phức tạp hơn. Khi dùng một mình, nghĩa
đen của nó gồm có "hatred," "resentment," "acrimony," "hostility,"
hoặc "animosity." Chữ "hận" cũng có thể được dùng là chữ phụ
cho từ ngữ "ân hận" có nghĩa "regret," "repentance," hoặc
"remorse." Tuy nhiên, từ ngữ "ân hận" ít khi được dùng với dạng
thu ngắn thành một chữ "hận." Do đó, ta có thể dẹp ý nghĩa
này sang một bên.
Chữ "hận" cũng có thể được dùng với chữ "thù" để thành chữ
kép "thù hận" hay "hận thù." Tuy chúng có thể được dùng trong
chữ kép, "hận" và "thù" có thể được dùng riêng rẽ với ý
nghĩa tương tự. Cả "hận" lẫn "thù" đều hàm ý một sự thù
ghét, căm hờn sâu đậm, nhưng chúng có chút khác biệt tinh tế.
Sự khác biệt tinh tế này khó giải thích, ngay cả với người
Việt. Vài thí dụ có thể giải thích việc này. "Thù," khi được
dùng với một chữ chỉ người ("kẻ"), một nhóm người như lính
("quân"), một phe đảng ("phe"), có nghĩa "enemy." Thí dụ, "kẻ
thù," "quân thù," "phe thù." Trong nội dung này, "thù" thường
được dùng với chữ "nghịch" hay "địch" có nghĩa "adversary" hay
"opponent" (đối phương, đối thủ, đối nghịch). Do đó, "thù" hàm
ý một sự căm hờn sâu đậm rõ rệt, cụ thể, minh bạch cho một
hành động được sẵn sàng công nhận là gây ra giận dữ, đau buồn,
và thống khổ cho một người. Mặt khác, "hận" không bao giờ
được dùng với "kẻ," "quân," hoặc "phe" để chỉ enemy. "hận" hàm
ý một cái gì tiểm tàng hơn, trừu tượng hơn, nhưng vẫn có nỗi
căm hờn sâu đậm. Một phụ nữ có thể "hận" người tình vì hắn
bỏ cô đi theo một cô trẻ hoặc đẹp hơn. John có thể "hận" Steve
vì không những Steve lấy cả mọi tài sản giàu có của John mà
còn lấy luôn cả tình thương yêu của con cái John. Linda có thể
"hận" David vì không những David giết cha mẹ cô, mà còn đào mồ
mả tổ tiên Linda. Do đó, "hận" hàm ý một nỗi căm hờn, thù
ghét sâu đậm, sắc bén, và hạn hẹp cho một hành động không
những tạo ra giận dữ, đau thương, và cay đắng cho một người mà
còn đụng chạm đến tình thương yêu cá biệt hoặc kho tàng thiêng
liêng của người đó.
Trong bối cảnh những gì đám cộng sản Việt Nam đã làm với
người Nam Việt Nam nói riêng, và người dân Việt nói chung, và
trong ý nghĩa rộng rãi hơn, với tổ quốc Việt Nam, chữ "hận"
là chữ thích hợp nhất.
Ta nên ghi chú là một chữ khác có thể dùng với chữ "thù" là
"ghét." Hai chữ này có thể được dùng chung ̣để thành chữ ghép
"thù ghét" (nhưng không bao giờ "ghét thù"). Động từ "ghét" có
nghĩa "hate" hoặc "dislike." Cường độ của nó kém hơn "hận"
hoặc "thù" rất nhiều và do đó không nên được dùng trong bối
cảnh căm hờn hoặc thù sâu đậm.
Vì những ý nghĩa trên, "hận" không nên được dịch sang tiếng Anh
là "anger" (giận dữ) hoặc "shame" (nhục nhã) mặc dù "anger"
hoặc "shame" có thể chỉ những khía cạnh khác của "hận." Chữ
đơn độc tiếng Anh hay nhất cho "hận" là "hatred" vì chữ đó ngắn
gọn và dễ hiểu.
b. Qua việc coi ngang "quốc hận" với "mất nước," ông Vũ tầm
thường hóa nỗi căm hờn sâu đậm và hận thù của dân Việt Nam
đối với chế độ cộng sản.
Ông Vũ khai triển các lý luận về vấn đề Nam Việt Nam không
phải là một nước hoặc quốc gia qua chính các hiến pháp và dự
tính thống nhất. Đây có vẻ là trọng tâm của lý luận ông vì
ông kết luận không có việc mất nước và không có Ngày Quốc Hận
chỉ trên căn bản này thôi. Ông viết, "Cũng như vậy, không thể gọi
ngày 30 tháng 4 là 'Ngày Quốc hận' vì đã không có chuyện 'mất nước' vào
ngày đó." Thật đáng kể là ông Vũ quá đơn giản hóa vấn đề qua
việc coi ngang ý nghĩa của "quốc hận" với "mất nước."
Qua việc nói rằng vì không có việc mất nước, nên không nên có
quốc hận, ông Vũ hàm ý mất nước là lý do duy nhất cho nỗi
quốc hận của người miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngay sau câu
khẳng định này, ông Vũ viết, "Mặc dầu vậy, không thể phủ nhận oán
hận của những người Việt từng phục vụ chính thể Việt Nam Cộng hòa và gia
đình họ đối với chính quyền cộng sản Việt Nam là vô cùng lớn. Vậy đâu
là nguyên nhân?" Nói cách khác, ông Vũ thừa nhận quả thật có
sự oán ghét của người miền Nam với chế độ cộng sản hiện
tại, nhưng ông không coi sự oán ghét này liên hệ tới ngày 30
tháng 4 năm 1975. Như được phân tích ở phần đầu bài này, câu này
mở đầu cho phần thứ nhì bài luận ông Vũ. Ông Vũ rõ ràng
tách rời hai phần qua việc tách "quốc hận" trong "ngày quốc
hận" ra khỏi "nỗi oán hận của người Nam Việt Nam đối với chế
độ cộ́ng sản hiện tại."
Ta có thể bác bỏ kết luận của ông Vũ rằng không có ngày quốc
hận bằng cách chứng minh Nam Việt Nam quả thực là nước hay
quốc gia và quả thật có việc mất nước khi cộng sản Việt Nam
chiếm đóng Nam Việt Nam, như tôi đã làm ở trên. Tuy nhiên, có
việc hay hơn là chỉ bác bỏ lý luận của ông Vũ. Bác bỏ kết
luận của ông Vũ trên căn bản sự sai trái của nó thì hữu ích
hơn.
Ông Vũ đồng ý việc dân miền Nam Việt Nam oán hận chế độ cộng
sản, nhưng ông lại chối bỏ việc oán hận này liên hệ đến ngày
30 tháng 4. Ông Vũ dường như nói rằng không có liên hệ hai việc
này vì ngày quốc hận kỷ niệm một ngày đặc biệt, đánh dấu
sự xụp đổ của chế độ VNCH, trong khi nỗi oán hận của người
miền Nam Việt Nam đối với chế độ cộng sản hiện nay là kết
quả của nhiều năm hận thù đối với cách đối xử của chính
quyền cộng sản xảy ta nhiều năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Quan điểm này sai lầm. Hai sự kiện này thực ra có liên hệ chặt
chẽ qua ngày 30 tháng 4. Nếu quốc gia có chủ quyền VNCH không
xụp đổ, thì sẽ không có việc cộng sản Việt Nam lộ nguyên hình
là những kẻ tội phạm, phản bội Tổ quốc, áp bức hung bạo,
và gian xảo.
Như tôi đã thảo luận trong bài trước về ý nghĩa lá cờ vàng
của VNCH (Cao-Đắc 2014), tuyên truyền cộng sản luôn luôn nói rằng
người miền Nam Việt Nam chống cộng, nhất là những cựu chiến
sĩ VNCH, oán hận cộng sản Việt Nam vì họ (người miền Nam Việt
Nam) thua trong cuộc chiến. Bằng cách mô tả những cựu chiến
binh VNCH là những người thua trận cay cú, cộng sản Việt Nam cố
tầm thường hóa nỗi căm hờn và oán hận mạnh mẽ đối với chế
độ cộng sản.
Thua cuộc chiến không bao giờ là lý do cho nỗi oán hận của
người Việt đối với phe thắng trong lịch sử Việt Nam và lại
còn hơn thế nữa với người miền Nam Việt Nam sau tháng tư năm
1975. Lịch sử Việt Nam cho thấy mặc dù có nhiều cuộc nội
chiến hàng nhiều thế kỷ, từ chiến tranh mười hai sứ quân vào
thế kỷ thứ 10 tới cuộc chiến nhà Trịnh và nhà Nguyễn vào
thế kỷ 17 và 18, và nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn vào cuối thế
kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, dân Việt luôn luôn sống hòa thuận với
nhau sau đó. Ngoài ra, số cựu chiến binh VNCH chỉ là số ít lúc
ban đầu và đã suy giảm rất nhiều sau 40 năm. Những người bây
giờ còn sống đang ở tuổi sáu mươi, bảy mươi, và tám mươi. Đa
số muốn sống cuộc sống thanh bình. Nhiều người Việt chống
cộng là hậu duệ của thế hệ thứ nhất của người miền Nam Việt
Nam và họ không có trí nhớ hoặc kinh nghiệm về chiến tranh
Việt Nam.
Người miền Nam chống cộng oán hận chế độ cộng sản không phải
vì miền Nam Việt Nam thua trong cuộc chiến, nhưng vì cộng sản
đối xử người Việt, Bắc hay Nam, với sự tàn nhẫn, tàn bạo, và
áp bức. Quan trọng hơn, chế độ cộng sản cướp người dân, dung
dưỡng tham nhũng, phá hại luân lý trong xã hội, phá hủy nền
văn hóa, làm hư hại đất đai, phản bội tổ quốc, âm mưu bán nước
cho Tàu cộng, tiêu hủy trí óc tuổi trẻ, lừa gạt dân với dối
trá và giấu giếm, và phạm nhiều tội ác với nhân dân.
Ngày Quốc Hận không có tên đó ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Phải qua nhiều năm trước khi các cộng đồng NVHN quanh thế giới
trở nên ổn định trong xứ sở mới của họ. Sự tưởng niệm ngày
30 tháng 4 là Ngày Quốc Hận đã trở thành ngày càng kỹ lưỡng
và hoàn chỉnh và có ý nghĩa khi càng có nhiều bằng chứng
tội ác của ĐCSVN được biết vạch trần. Vào ngày đó, có diễn
hành cho thấy các hoạt động và niềm hãnh diện của NVHN, hội
họp tố cáo tội ác ĐCSVN với diễn văn và hình ảnh, các lễ
tưởng niệm và cầu nguyện cho nạn nhân cộng sản và những người
hy sinh cho tự do dân chủ, và các chương trình văn hóa khác.
Bằng cách nói rằng vì không có việc mất nước, không nên có
ngày quốc hận, ông Vũ dường như nghĩ rằng các cộng đồng NVHN
kỷ niệm ngày 30 tháng 4 là Ngày Quốc Hận vì ngày đó đánh
dấu ngày cuối cùng của VNCH. Tuy ngày 30 tháng 4 quả là ngày
quốc gia có chủ quyền VNCH xụp đổ, ngày 30 tháng 4 được gọi
là Ngày Quốc Hận không phải chỉ vì biến cố này. Nó được gọi
vậy chính yếu là vì nó đánh dấu khởi đầu của giai đoạn đen
tối nhất trong lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, tuy quốc gia có chủ
quyền VNCH xụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, nước và dân tộc
VNCH không bị hủy diệt. Trái lại, như tôi sẽ thảo luận trong
một bài kế tiếp, VNCH vẫn sống và phát huy mạnh mẽ là một
nước, tuy bị chiếm đóng, và một dân tộc.
Nếu sau sự xụp đổ của quốc gia có chủ quyền VNCH, ĐCSVN mang
nước Việt Nam tới thịnh vượng, đối xử người dân với lòng kính
trọng và nhân phẩm, tôn trọng nhân quyền và dân quyền, tôn
trọng tự do và dân chủ thực sự, làm giảm tham nhũng, và hành
xử với lòng can đảm đối với Tàu cộng, thì ngày 30 tháng 4
không bao giờ được gọi là Ngày Quốc Hận. Thực ra, dưới cảnh
đó, chắc là nhiều NVHN sẽ nhiệt tình trở về Việt Nam để tham
gia trong việc tái dựng quốc gia.
Mọi quốc gia trên thế giới đều hiểu rõ khái niệm của ngày
quốc hận là ngày tưởng niệm sự khởi đầu của một giai đoạn
nhục nhã, giận dữ, hoặc đen tối. Từ ngữ "Ngày Quốc Hận" cũng
đã từng được dùng để kỷ niệm "những hành động tàn bạo của
chế độ Khmer Đỏ cai trị nước trong 1975-1979"(Wikipedia 2015e). Từ
ngữ "quốc hận" cũng đã được dùng để mô tả một biến cố lịch
sử nào đó như nỗi thù hận của Tàu cộng đối với Nhật trong
chiến tranh Tàu - Nhật, nhất là biến cố năm 1937 được biết đến
là Cuộc Thảm Sát Vĩ Đại Nam Kinh (Chen 2010, 583; Yim 2013).
Sau 40 năm, ĐCSVN đã phá hủy đất nước và người dân Việt Nam.
Ngày 30 tháng 4 quả thật là ngày đánh dấu giai đoạn đen tối
nhất trong lịch sử Việt Nam. Do đó, ngày 30 tháng 4 được thích
đáng gọi là Ngày Quốc Hận, cho dù sau này đất nước dẹp ĐCSVN
và trở thành trù phú.
C. Kết Luận
Bài này bác bỏ phần đầu bài luận của Cù Huy Hà Vũ. Phần
này đầy rẫy những sai lầm về đủ mọi khía cạnh, từ tiền đề,
lý luận, và kết luận. Cái tiền đề về xâm lăng chỉ dính líu
đến quốc gia là tiền đề sai lầm. Ngoài ra, lý luận của ông
rằng Nam Việt Nam không phải là một nước hay quốc gia tự mâu
thuẫn, là một ngụy biện, và sai lầm dưới tiêu chuẩn khách
quan. Quan trọng hơn, kết luận của ông Vũ rằng không có việc
mất nước và ngày 30 tháng 4 không nên là ngày quốc hận cho
thấy sự kém hiểu biết của ông về cảm xúc mất mát và nỗi
oán hận đối với chế độ cộng sản hiện nay của NVHN và dân
Việt sống tại Việt Nam.
Ông Vũ lẽ ra có thể viết được một bài mạnh mẽ và có sức
thuyết phục hơn nếu ông sửa đổi phần đầu và liên kết nó với
phần sau theo luận lý. Ông lẽ ra có thể lý luận rằng cuộc xâm
lăng của cộng sản Việt Nam vào miền Nam Việt Nam quả thật lấy
đi tinh thần tự do và dân chủ của VNCH và gây ra cảm xúc mất
nước to tát cho người miền Nam Việt Nam. Do đó, ngày 30 tháng 4
phải là Ngày Quốc Hận vì không những ngày đó đánh dấu thích
đáng sự xụp đổ của quốc gia có chủ quyền VNCH mà còn là sự
khởi đầu của giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam như
được cho thấy qua bằng chứng của sự tàn ác do cộng sản đặt
lên người miền Nam Việt Nam ngay sau cuộc chiến và sự áp bức
của toàn thể dân Việt từ ngày đó. Do đó, việc giải thể ĐCSVN
là giải pháp hữu hiệu nhất để mang thịnh vượng tới Việt Nam
và để làm mạnh mẽ thêm lòng yêu thương trong người dân Việt, từ
Nam ra Bắc, mặc cho các nỗ lực chính quyền chia rẽ người dân
và xuyên tạc lịch sử.
Bennett, Bo. Không rõ ngày. Logically Fallcious. Không rõ ngày.
http://www.logicallyfallacious.com/index.php/logical-fallacies (truy cập 1-6-2015).
Cao-Đắc, Tuấn. 2014. Ý nghĩa lá cờ vàng của người Việt hải ngoại. 23-12-2014.
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/12/y-nghia-la-co-vang-cua-nguoi-viet-hai_23.html (truy cập 31-5-2015).
Chen, Kuan-Hsing. 2010. Paik Nak-chung’s theory of overcoming ‘division system’: rethinking the China–Taiwan relation with reference to the two Koreas. Inter-Asia Cultural Studies, Volume 11, Number 4, 566-590.
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/14649373.2010.506779 (truy cập 31-5-2015).
Constitute. 2015. Korea (Republic of)'s Constitution of 1948 with Amendments through 1987. 11-3-2015. https://www.constituteproject.org/constitution/Republic_of_Korea_1987.pdf (truy cập 30-5-2015).
Cù Huy Hà Vũ. 2015. Tự do sẽ chấm dứt hận thù dân tộc. 14-5-2015.
http://www.voatiengviet.com/content/chhv-tu-do-se-cham-dut-han-thu-dan-toc/2767507.html (truy cập 26-5-2015).
DiMaggio, Paul and Fernandez-Kelly, Patricia. 2010. Art in the Lives of Immigrant Communities in the United State. Rutgers University Press, Piscataway, NJ. U.S.A.
History. Không rõ ngày. Sept 18, 1964. North Vietnamese Army begins infiltration. Không rõ ngày. http://www.history.com/this-day-in-history/north-vietnamese-army-begins-infiltration (truy cập 8-6-2015).
Nguyen, Hung Manh and Haines, David W. 1996. Vietnamese. Chapter 14 in “Refugees in America in the 1990s: A Reference Handbook,” by David W. Haines (Ed.). Greenwood Press, Westport, Connecticut, U.S.A.
Olsen, Mari. 2006. Soviet-Vietnam Relations and the Role of China, 1949-64: Changing Alliances. Routledge, New York, NY, U.S.A.
Sorley, Lewis. 1999. A Better War. Hartcourt, Inc. Orlando, Florida. U.S.A.
Trần Nhật Kim. 2015. 30 tháng 4 Là Ngày Quốc Hận của Dân Tộc. 4-2015. http://hon-viet.co.uk/TranNhatKim_30thangTuLaNgayQuocHanCuaDanToc.htm (truy cập 31-5-2015).
Trần Văn Tích. Không rõ ngày. Ngày Quốc Hận "in English". Không rõ ngày. Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y. http://svqy.org/2013/5-2013/ngayquochan.html (truy cập 31-5-2015).
Wikipedia. 2015a. Invasion. 18-5-2015. http://en.wikipedia.org/wiki/Invasion (truy cập 28-5-2015).
_________. 2015b. Constitution. 5-6-2015. http://en.wikipedia.org/wiki/Constitution (truy cập 6-6-2015).
_________. 2015c. List of former sovereign states. 28-5-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_former_sovereign_states#Southeast_Asia (truy cập 29-5-2015).
_________. 2015d. South Vietnam. 27-5-2015. http://en.wikipedia.org/wiki/South_Vietnam (truy cập 31-5-2015).
_________. 2015e. Day of Remembrance (Cambodia). 20-5-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/Day_of_Remembrance_%28Cambodia%29 (truy cập 31-5-2015).
_________. 2015f. Easter Offensive. 8-6-2015. http://en.wikipedia.org/wiki/Easter_Offensive (truy cập 8-6-2015).
Yim, Tsz Kwan. 2013. China’s Reinterpretation of Nanjing Massacre1937. 2-12-2013.
https://ccpc.asian.lsa.umich.edu/chinas-reinterpretation-of-nanjing-massacre/ (truy cập 31-5-2015).
© 2015 Cao-Đắc Tuấn
No comments:
Post a Comment