Khi
ấy các nhà lãnh đạo được đưa lên mặt báo thường xuyên. Tờ Tin Sáng có
mục “Tin Vịt” do “Tư trời biển” viết nêu đích danh Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu là tham quyền cố vị, hiếu chiến, thất học, tham nhũng, bất tài
hay gọi ông là "Tổng thống Thẹo", "Sáu Thẹo"…
Hằng
trăm tờ báo tư nhân hoàn toàn không bị mua chuộc hoặc bị áp lực theo
đường lối của chính phủ. Có báo thân chính phủ, chống cộng, có báo đối
lập thậm chí có báo công khai chống đối chính phủ như tờ Tin Sáng nói
trên.
Trên
50 tờ nhật báo với số in từ vài chục lên đến trăm ngàn số hằng ngày.
Các nhà báo, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ được tự do sáng tác và phổ biến
tác phẩm không bị gò ép trong bất cứ khuôn khổ nào.
Đương
nhiên trong hoàn cảnh chiến tranh việc lộ liễu tuyên truyền cho miền
Bắc đã bị kiểm soát. Nhưng trên sách báo vẫn thấy rải rác những bài viết
ca ngợi quốc tế cộng sản. Việc ngấm ngầm tuyên truyền cho cộng sản
Việt Nam cũng không thể tránh khỏi.
Các
bài dịch từ báo ngoại quốc với cái nhìn của người ngoại cuộc thậm chí
thân cộng cũng thường xuyên xuất hiện trên mặt báo.
Hàng
ngàn nhà in, nhà phát hành đều do tư nhân quản lý. Các tiệm sách và
sạp báo tư nhân trải rộng khắp miền Nam. Thị trường sách báo hoạt động
hoàn toàn tự do.
Ðiều
12 Hiến pháp 1967 ghi rõ: "Quốc gia tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự
do ngôn luận, báo chí và xuất bản, miễn là sự hành xử các quyền này
không phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc phòng hay thuần phong
mỹ tục".
Bảo vệ bởi luật
Các
sinh hoạt báo chí được bảo vệ bởi Luật báo chí 019/69, do Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa, Nguyễn Văn Thiệu ban hành vào ngày 30/12/1969.
Đạo
luật gồm 8 chương và 69 điều. Chương 1 đã khẳng định quyền tự do báo
chí là quyền tự do căn bản trong chính thể Việt Nam Cộng Hòa, miễn bài
báo không phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc gia và thuần
phong mỹ tục.
Nếu không có quyết định của cơ quan tư pháp không ai có quyền đóng cửa tờ báo.
Sách
báo, tài liệu nước ngoài bản chính và bản dịch nếu không vi phạm đến
an ninh quốc gia và thuần phong mỹ tục cũng được tự do phổ biến tại miền
Nam.
Sau
30-4-1975, để tìm hiểu về chủ nghĩa cộng sản, giới trí thức miền Bắc
đã tìm mua những sách xuất bản trước 1975 hay những sách ngoại quốc viết
về chủ nghĩa cộng sản.
Chương
2 của Bộ Luật nhấn mạnh mọi công dân đều được xuất bản báo mà không
cần xin phép. Người muốn ra báo chỉ cần làm thủ tục khai báo tại Bộ
Thông tin. Bộ có nghĩa vụ phải lập tức cấp chứng nhận tạm thời khi nhận
đủ giấy tờ khai báo.
Ngoại kiều cũng có quyền xuất bản báo, chỉ cần Tổng trưởng Bộ Thông tin hội ý với Tổng trưởng Bộ Nội vụ cấp giấy phép.
Chương 3 nếu không có quyết định của cơ quan tư pháp, không ai có quyền tạm đình bản hay đình bản vĩnh viễn bất cứ tờ báo nào.
Trong
hoàn cảnh chiến tranh để trách những thông tin vi phạm đến an ninh quốc
gia chính phủ đã phải thi hành chính sách kiểm duyệt hạn chế. Tại Sài
Gòn, Tổng trưởng Nội vụ có quyền ra lệnh tịch thu một tờ báo trước hay
trong khi lưu hành. Tại các tỉnh, Tỉnh trưởng cũng có quyền này.
Báo
chí không thể bị khởi tố khi tường thuật hay đăng tải các phiên họp,
các thuyết trình, các ý kiến thể hiện quan điểm chính trị. Báo chí có
quyền trích dịch mọi nguồn thông tin ngoại quốc.
Báo chí có quyền chỉ trích Chính phủ miễn là không nhằm mục đích tuyên truyền cho cộng sản.
Tự do hoạt động
Hội
đồng Báo chí hay Hội Nhà báo là một tổ chức dân sự đại diện cho báo
chí. Hội Đồng hoàn toàn vì quyền lợi của nhân viên tòa soạn. Mỗi báo có
ít nhất 2 đại diện một là Chủ nhiệm và một ký giả đại diện của tờ
báo.
Theo
Đạo Luật 019/69 nhà báo là người nhận thù lao và cộng tác thường xuyên
với tờ báo. Nhà báo phải có thẻ hành nghề do tờ báo cấp và đăng ký ở Bộ
Thông tin.
Phóng
viên ngoại quốc cũng được tự do hoạt động, nhiều người được móc nối
đưa vào vùng cộng sản chiếm để làm phóng sự tuyên truyền cho cộng sản.
Trong
hoàn cảnh chiến tranh cộng sản đã lợi dụng tự do báo chí để hoạt
động. Nhiều ký giả, phóng viên, nhân viên tòa báo là cán bộ cộng sản
nằm vùng hay làm việc cho cộng sản.
Nhật
báo Tin Sáng của dân biểu đối lập Ngô Công Đức gồm nhiều người thuộc
thành phần thứ ba như Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Lý
Quí Chung. Sau 30-4-1975, Tin Sáng được tiếp tục phát hành thêm 6 năm,
được đóng cửa với lý do tờ báo đã "hoàn thành nhiệm vụ".
Tình trạng báo đối lập tại miền Nam đã được tờ Lao Động, số ra ngày 13/07/2015, tóm gọn như sau:
“Báo
đối lập bị tịch thu dài dài, chủ bút ra tòa như cơm bữa, nhưng chỉ bị
“phạt miệng”, chứ không đóng một xu nào. Tịch thu thì cứ tịch thu, báo
vẫn đến tay độc giả đều đều.
Lí
do hết sức đơn giản, báo chưa đưa đi kiểm duyệt đã phát hành rồi nên
khi cảnh sát ập đến tòa soạn để lập biên bản tịch thu thì có một số tờ
đã "cao chạy xa bay".
Trong
hoàn cảnh chiến tranh và trước tình trạng nói trên ngày 4-8-1972, Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành Đạo Luật số 007/72.
Luật
mới quy định mỗi nhật báo phải ký quỹ tại Tổng nha ngân khố 20 triệu
đồng (bằng 500 lượng vàng) và 10 triệu đồng cho báo định kỳ. Ngay khi
ban hành đã có 16 tờ nhật báo và 15 tờ báo định kỳ không có tiền ký quỹ
phải đóng cửa.
Luật mới cũng quy định tờ nào hai lần vi phạm an ninh quốc gia và trật tự công cộng thì sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn.
Việt
Nam Cộng Hòa là một nước theo thể chế tam quyền phân lập rõ ràng: Tư
pháp độc lập với Hành pháp. Cơ quan hành Pháp truy tố một tờ báo
nhưng quyết định tờ báo có vi phạm an ninh quốc gia và trật tự công
cộng, vi phạm ở mức độ nào là quyết định hoàn toàn của Tòa Án.
Luật
mới ra đời báo chí vẫn hoạt động khá tự do. Như tháng 8 năm 1974 báo
chí vẫn tiếp tục cổ vũ cho Phong trào nhân dân chống tham nhũng của Linh
mục Trần Hữu Thanh, hay cổ động cho Ngày ký giả đi ăn mày, 10-10-1974.
Điểm son nền Cộng hòa
40
năm nhìn lại sinh hoạt báo chí cũng như mọi sinh hoạt khác tại miền Nam
vừa tự do, vừa văn minh hơn hẳn các quốc gia trong vùng và không thua
gì các quốc gia tân tiến. Đây là điểm son của nền Đệ Nhị Cộng Hòa làm
nhiều người cảm thấy luyến tiếc một thời đã qua.
Một số người cũng cho rằng chính báo chí đã dẫn đến sự sụp đổ của miền Nam tự do.
Thực ra định mệnh của nền Đệ Nhị Cộng Hòa đã được thu xếp tại Tòa Bạch Ốc, từ Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Hiệp Định Ba Lê.
Một số bạn ở Việt Nam cho biết báo chí thời nay ít người đọc.
Ngược lại ở hải ngoại báo chí vẫn thịnh hành.
Điều này chứng tỏ nhu cầu đọc báo ở Việt Nam đã không được đáp ứng.
Trở
lại với nhà báo Đỗ Hùng, bài viết của ông đã được lấy xuống không một
lời giải thích, không còn thấy Facebook của ông và không ai biết việc gì
đang xảy ra cho ông.
Điều này chứng minh ở Việt Nam hoàn toàn không có quyền tự do ngôn luận.
Ở Việt Nam chỉ có 1 cơ quan tuyên giáo nên rất có thể không báo nào dám nhận ông làm việc.
Từ góc cạnh nhân quyền ông mất cả quyền mưu cầu cuộc sống cá nhân và gia đình.
Việt
Nam đang cố gắng để được tham gia Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình
Dương (TPP) có điều khoản về tự do báo chí, việc nhà cầm quyền cộng
sản sa thải nhà báo Đỗ Hùng cho thấy họ chưa sẵn sàng tuân thủ các điều
khoản sẽ ký.
Ngược
lại bài học từ tự do báo chí trong nền Đệ Nhị cộng Hòa cho thấy nước
Việt Nam và người Việt Nam thích nghi hơn với một thể chế tự do như
đã có tại miền Nam trước.
Bài viết thể hiện lối hành văn và phản ánh quan điểm của tác giả, một ký giả đang sống tại Melbourne, Úc
Nguyễn Quang Duy
No comments:
Post a Comment