Đại nạn Trung Hoa thời cổ sử
Việt Nam nằm về phía nam Trung Hoa, một
nước lớn so với Việt Nam. Vị trí địa lý nầy là một đại nạn thường trực
cho Việt Nam, vì các nhà lãnh đạo Trung Hoa qua mọi thời đại, luôn luôn ỷ
thế nước lớn, kiếm cách xâm lăng các nước nhỏ láng giềng, trong đó có
Việt Nam. Bài nầy trình bày đại nạn Trung Hoa thời cổ sử.
- Trung Hoa xâm chiếm cổ Việt
Ở phương bắc, lúc mới lập quốc, người
Trung Hoa quần tụ sinh sống chung quanh lưu vực Hoàng Hà (Huang He),
phía bắc Dương Tử Giang (Yang Zi Jiang), khá xa cổ Việt. Các triều đại
Trung Hoa đầu tiên theo chế độ phong kiến, tức phong hầu (phong chức) và
kiến địa (cắt đất) để cai trị. Hoàng đế Trung Hoa nắm giữ chính quyền
trung ương. Các vương hầu đứng đầu các tiểu quốc chung quanh gọi là chư
hầu. Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên (TCN), nhà Châu (Chou) suy yếu.
Trong các chư hầu, lúc đó nước Tần mạnh nhất.
Năm 221 trước TCN, vua nước Tần là Tần
Chính tiêu diệt các chư hầu, thống nhất Trung Hoa, lên ngôi hoàng đế tức
Tần Thủy Hoàng (Ch’in Shih Huang, trị vì 221-210 TCN), lập ra nhà Tần
(Ch’in). Tần Thủy Hoàng bỏ chế độ phong kiến, xóa các nước nhỏ, chia
Trung Hoa thành 36 quận, đặt quan cai trị, thuộc quyền hoàng đế.
Ổn định xong trung nguyên Trung Hoa, Tần
Thủy Hoàng sai Đồ Thư (Tu Shu) và Sử Lộc (Shi Lu) cầm quân vượt qua sông
Dương Tử năm 214 TCN (đinh hợi), mở mang bờ cõi xuống phương nam, chiếm
vùng đất mà người Trung Hoa gọi là vùng Bách Việt, lập thành ba quận là
Quế Lâm (Kueilin), Nam Hải (Nanhai), và Tượng Quận (Hsiang).
Quế Lâm nay là vùng bắc và đông Quảng
Tây. Nam Hải là vùng Quảng Đông. Tượng Quận là đất cổ Việt, tức vùng Bắc
Việt ngày nay. Trong ba quận nầy, Tượng Quận ở xa xôi nhất đối với
Trung Hoa. Phía bắc Tượng Quận, núi non hiểm trở bao bọc, ngăn cách với
Nam Hải, Quế Lâm, và trung nguyên Trung Hoa.
Đồ Thư bị người địa phương kháng cự và
giết chết. Nhà Tần cử Nhâm Ngao (hay Nhâm Hiêu) làm hiệu uý quận Nam Hải
và Triệu Đà (Chao T’o) làm huyện lệnh Long Xuyên (Lung-Chuan), thủ phủ
của quận Nam Hải.
Năm 210 TCN (tân mão), Triệu Đà đem quân
sang đánh Tượng Quận hay cổ Việt. Theo truyền thuyết, vua cổ Việt là An
Dương Vương, nhờ có nỏ thần nên đã đẩy lui quân Triệu Đà. Triệu Đà liền
giảng hòa và cho con trai là Trọng Thủy sang kết hôn với con gái của An
Dương Vương là Mỵ Châu. Trọng Thủy lén bẻ gãy nỏ thần, thay bằng một nỏ
giả, rồi về nước. Năm 208 TCN (quý tỵ), Triệu Đà tấn công An Dương Vương
lần nữa, và chiếm được khu vực cổ Việt.(1)
Lúc đó, Nhâm Ngao bị bệnh qua đời. Trước
khi từ trần, Nhâm Ngao khuyên Triệu Đà nên dựa vào địa thế xa xôi hiểm
trở của quận Nam Hải, thành lập một nước độc lập. Năm 207 TCN (giáp
ngọ), Triệu Đà chiếm Nam Hải và tự xưng vương, tức Triệu Võ Vương, đặt
quốc hiệu là Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (có tài liệu gọi là Phan
Ngu hay Phan Ngung). Năm 198 TCN (quý mão), Triệu Võ Vương cử người sang
cai trị cổ Việt.(Cương mục, bd. tập 1, sđd. tr. 89.)
Bên Trung Hoa, sau khi nhà Tần bị lật đổ,
Hạng Võ (Xiang Yu) cùng Lưu Bang (Liu Bang) tranh hùng. Lưu Bang thành
công, lên ngôi hoàng đế, tức Hán Cao Tổ (Han Kao Tsu, trị vì 202-195
TCN), lập ra nhà Hán (202 TCN – 220). Lúc đầu, Hán Cao Tổ vẫn để họ
Triệu làm vương đất Nam Việt. Gần 100 năm sau, Hán Võ Đế (Han Wu Ti, trị
vì 141-87 TCN) sai Lộ Bác Đức (Lu Bo De) đem quân đánh nhà Triệu năm
canh ngọ (111 TCN), giết vua Triệu Dương Vương và thái phó Lữ Gia, chiếm
nước Nam Việt.
Cần chú ý là Triệu Đà vốn là tướng của
nhà Tần, vâng lệnh nhà Tần làm huyện lệnh Long Xuyên, thủ phủ của quận
Nam Hải, nhân cơ hội xáo trộn ở Trung Hoa, đứng lên chiếm quận Nam Hải,
lập ra nước Nam Việt. Triệu Đà không phải là người địa phương Bách Việt.
Triệu Đà xâm lăng cổ Việt và sáp nhập cổ Việt vào nước mới của ông là
Nam Việt.
Theo sử gia Ngô Thời Sỹ (thế kỷ 18), tác
giả bộ Việt sử tiêu án, vì Triệu Đà sáp nhập cổ Việt vào nước Nam Việt,
nên khi Nam Việt bị Lộ Bác Đức sáp nhập vào nước Trung Hoa năm 111 TCN,
vùng cổ Việt cũng bị sáp nhập luôn vào Trung Hoa, chứ trước kia quân đội
của triều đình Trung Hoa không xuống tận miền biên viễn xa xôi nầy. Do
đó, theo Ngô Thời Sỹ, Triệu Đà chẳng những không có công gì với cổ Việt
mà là người đem họa lại cho cổ Việt nữa.(2) Từ đó, cổ
Việt bị Trung Hoa đô hộ cho đến năm 938, khi Ngô Quyền chiến thắng trận
Bạch Đằng Giang, đánh đuổi quân Nam Hán ra khỏi nước.
2.- Chủ trương thuộc địa thựa dân
Khi gởi quân vượt sông Dương Tử, đánh
chiếm Bách Việt, triều đình Trung Hoa thực hiện ngay chính sách thuộc
địa thực dân (thực = trồng, tức trồng người). Triều đình Trung Hoa gởi
người Trung Hoa, thuộc chủng Mongoloiid (Mông-cổ) đến các vùng đất mới
chiếm càng ngày càng đông. Những đợt di dân đầu tiên có thể gồm hai hạng
người: thứ nhất là những binh sĩ đi chiếm đất và thứ hai là những người
có trọng tội, bị lưu đày đến miền biên viễn. Khi làm lệnh Long Xuyên,
Triệu Đà gởi sứ về triều đình nhà Tần, xin triều đình gởi ba vạn con gái
hoặc đàn bà góa sang để làm vợ binh sĩ.(3) Như thế, chứng tỏ số người gốc Hoa được gởi đến vùng Nam Hải lên khá đông.
Từ khi Triệu Võ Vương (Triệu Đà) cử người
sang cai trị cổ Việt (198 TCN), người Trung Hoa thuộc chủng Mongoloiid
di cư đến tận cổ Việt càng ngày càng đông, đến nỗi có sử thuyết cho rằng
những người Hoa di cư nầy chính là tổ tiên người Việt. Trong thực tế
những di chỉ khảo cổ cho thấy những người đầu tiên sống trên đất cổ Việt
nói chung thuộc chủng người được sắp vào nhóm Indonesian hay Mã Lai Đa
Đảo (Malayo-Polynesian). Những người Hoa di cư từ thời Triệu Đà đến Cổ
Việt sinh sống, đã hợp chủng với người bản địa cổ Việt để trở thành tổ
tiên người Việt ngày nay.
Theo sách The Living Races of Men (New
York, 1966), các tiến sĩ Carleton S. Coon và Edward E. Hunt Jr. dựa trên
những khảo cứu về huyết học, đã sắp người Đông Nam Á, trong đó có người
Việt Nam, và người Indonesian nằm chung trong một hệ thống huyết tộc
với nhau.(4) Bên cạnh đó, trong những nghiên cứu về
nguồn gốc người Việt Nam, bộ bách khoa Encyclopedia Britannica (1999) đã
kết luận “… rằng giữa người Việt với người Thái và các tộc hệ
Indonesian có liên hệ mạnh mẽ [chặt chẽ] về xã hội và văn hóa.”(5)
Các kết quả nầy cho thấy trong cuộc hợp chủng Việt Hoa thời cổ Việt,
yếu tố bản địa có tính cách chủ yếu quan trọng cả về chủng tộc, lẫn văn
hóa và xã hội.
Yếu tố bản địa còn thấy rõ trong hai sự
kiện: 1) Thứ nhất, dầu bị đô hộ hơn một ngàn năm trong thời cổ sử, người
Việt vẫn duy trì tiếng Việt, vẫn nói tiếng Việt cho đến ngày nay, trong
khi chữ viết có thể thay đổi. 2) Thứ hai, đế quốc Trung Hoa xâm chiếm
miền Nam sông Dương Tử, một vùng đất rộng mệnh mông với nhiều sắc dân
khác nhau, duy nhất chỉ có người cổ Việt nổi lên giành độc lập, trong
khi các sắc dân khác đành chịu sự đô hộ của Trung Hoa. Điều nầy cho thấy
sắc dân bản địa là một thành tố quan trọng trong sự sống còn của người
Việt.
Điều đặc biệt là những người Mongoloiid
di cư đến sinh sống trên đất cổ Việt, từ đời nầy qua đời khác, đã gắn
liền với những quyền lợi chính trị, kinh tế người bản địa cổ Việt. Từ đó
những người Mongoloiid di cư đến cổ Việt được Việt hóa dần dần, và trở
thành một bộ phận của dân Việt, trái ngược với chủ trương đồng hóa người
Việt của triều đình Trung Hoa. (Thay vì đồng hóa người Việt theo Trung
Hoa, thì người Trung Hoa di cư lại biến thành người Việt.) Có khi chính
những người gốc Hoa di cư cũng nổi lên chống lại chế độ đô hộ Trung Hoa.
Tượng trưng cho khuynh hướng nầy là cuộc
nổi dậy của Lương Long năm 178 (mậu ngọ), rồi của các binh sĩ triều đình
Trung Hoa tại Giao Chỉ năm 184 (giáp tý), và nổi bật hơn cả là Lý Bôn
năm 541 (tân dậu). Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết về Lý Bôn như sau:
“Tổ tiên là người Bắc [Trung Quốc], cuối thời Tây Hán [202 TCN-25 SCN]
khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì
thành người Nam…”(6) Câu nầy không khẳng định là được
bảy đời mới trở thành người Nam, nhưng ý cho thấy sống lâu năm và nhiều
đời ở cổ Việt “thì thành người Nam”.
Như thế, từ thời Tần Thủy Hoàng, Trung
Hoa bắt đầu xâm chiếm miền nam sông Dương Tử, tiến xuống cổ Việt. Nhà
cầm quyền Trung Hoa di dân để đồng hóa vùng Bách Việt, nhưng khi đến
Tượng Quận, tức cổ Việt, mưu đồ nầy bất thành, vì gặp sự chống đối mạnh
mẽ của người cổ Việt, trong đó có cả những di dân từ phương bắc đến.
Ngưòi cổ Việt luôn luôn kiếm cách nổi dậy chống lại nhà cầm quyền thực
dân Trung Hoa, để giành lấy chủ quyền và nền độc lập của mình.
3.- Huyền thoại khai hóa
Đất cổ Việt bị Trung Hoa đô hộ từ năm 208 TCN đến năm 938, là năm Ngô Quyền đánh đưổi quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi cổ Việt.(7)
Nhà cầm quyền Trung Hoa đưa người sang cổ Việt, vừa để biến cổ Việt
thành một thuộc địa thực dân của Trung Hoa, làm phiên thuộc nhằm bảo đảm
an ninh phía nam của Trung Hoa, vừa để tổ chức khai thác và bóc lột
thuộc địa.
Công cuộc khai thác của những nhà đô hộ
Trung Hoa chỉ nhằm phục vụ quyền lợi Trung Hoa, nhưng lại luôn luôn tự
đề cao là họ đã khai hóa dân Việt mà họ cho là “Nam man”.(8)
Theo sách Hậu Hán thư (Hou Han shu, sách về đời Hậu Hán, viết vào thế
kỷ thứ 5): “Tục Cửu Chân làm nghề săn bắn chứ không biết dùng bò để cày.
Dân thường phải mua lúa Giao Chỉ mỗi lần bị thiếu thốn. [Nhâm] Diên bèn
truyền đúc các thứ điền khí dạy cho họ khẩn ruộng, ruộng đất trù mật,
mỗi năm một rộng thêm; trăm họ được đầy đủ. Dân Lạc Việt lại không có
phép cưới hỏi, mọi người ưa dâm dật, không quen thói sống chung với
nhau, nên không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng. Vì vậy Diên
gởi thư đi các huyện thuộc quyền ông, truyền cho mọi người đàn ông từ 20
đến 50 tuổi, đàn bà từ 15 đến 40 tuổi, tất cả tùy theo tuổi tác mà cưới
hỏi nhau… Trước kia trong thời Bình Đế có Tích Quang, người Hán Trung
làm thái thú Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy cho dân Man di ăn ở, tiếng giáo
hóa cũng lừng lẫy như ông Diên…Đất Lĩnh Nam giữ phong tục Trung Hoa bắt
đầu từ hai vị thái thú đó…”(9)
Đoạn văn nầy kể công hai nhân vật tiêu
biểu cho các thái thú Trung Hoa, là Tích Quan (Xi Guang/ Hsi Kuang) và
Nhâm Diên (Ren Yan / Jen Yen). Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ (châu
thổ sông Hồng), đời vua Hán Bình Đế (1-5 SCN). Nhâm Diên làm thái thú
Cửu Chân (châu thổ sông Mã) từ năm 25 đến năm 29 (SCN) thì được gọi về
Trung Hoa.
Hai nhân vật nầy, theo Hậu Hán thư, đã có
công:. 1) Truyền dạy việc dùng điền khí để cày ruộng. 2) Giáo hóa dân
bản địa. Hai “sự nghiệp” nầy được các bộ sử Trung Hoa ca tụng và được
một số bộ sử Việt Nam chép theo. Đây là hai vấn đề tiêu biểu cần được
xem xét lại:
- a) Thứ nhất, “Diên bèn truyền đúc các thứ điền khí dạy cho họ khẩn ruộng”. Dựa vào câu nầy, các sách xưa cho rằng chính Nhâm Diên đã dạy cho dân Việt biết cách dùng lưỡi cày bằng kim khí (điền khí) để cày ruộng. Cần chú ý là người Trung Hoa xưa ở vùng Hoàng Hà, trồng lúa mì và lúa mạch trên ruộng khô, không biết lúa gạo (lúa nước), thì làm sao giỏi kỹ thuật trồng lúa gạo ở ruộng nước mà dạy người Việt?
Trong khi đó, một tài liệu cổ của Trung
Hoa xác định rõ ràng lúa trồng tại cổ Việt là loại lúa nước, theo thủy
triều lên xuống mà cày cấy. Sách Giao Châu ngoại vực ký [viết khoảng
giữa đời Tấn (265-420) Trung Hoa] viết: “…Hồi xưa, chưa có quận huyện,
thì Lạc điền tùy theo thủy triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng
ấy gọi là Lạc dân, người cai quản dân gọi là Lạc vương, người phó là Lạc
tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu…”(10) “Theo thủy triều lên xuống mà cày cấy” chính là lúa trồng trong ruộng nước, hay lúa gạo.
Càng ngày càng có nhiều khảo cứu của các
học giả Hoa Kỳ, Nga, Trung Hoa và cả Việt Nam, cho thấy rằng Đông Nam Á
là trung tâm đầu tiên trên thế giới của nền văn minh lúa nước, rồi từ đó
lan truyền đi khắp nơi trên thế giới. Cũng theo các tác giả trên, tâm
điểm của trung tâm văn minh lúa nước ở Đông nam Á chính là khu vực Hòa
Bình ở Bắc Việt.(11) Hòa Bình nằm trong khu vực uốn
khúc của sông Đà để đổ lên sông Hồng, gần huyện Mê Linh (tức Phú Thọ,
Vĩnh Phúc), quận Giao Chỉ thời cổ Việt, nơi phát tích của Hai Bà Trưng.
Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II, giáo sư
nhân chủng học thuộc Đại học Hawaii, chuyên viên về tiền sử Đông Nam Á,
cho biết những di chỉ ông tìm kiếm được năm 1963 mách bảo rằng sắc dân
Lạc Việt ở Đông Nam Á đã biết trồng lúa và biết cách đúc đồng sớm hơn
các miền Cận đông, Ấn Độ và Trung Hoa. (National Geographic, Vol. 139,
No. 3, March 1971.)
Theo một tài liệu khác, tại Mê Linh (Vĩnh
Phúc, Phú Thọ ngày nay) quận Giao Chỉ (châu thổ Hồng Hà), người ta tìm
thấy những bộ xương trâu đã có mặt tại đây khoảng 2,000 năm trước Công
nguyên, và hai lưỡi cày bằng đồng theo mô thức Đông Sơn (thế kỷ thứ 5
TCN đến thế kỷ 1 SCN) dùng cho trâu cày.(12)
Như thế, rõ ràng Nhâm Diên không phải là
người khai tâm dân Việt dùng điền khí để cày cấy như Hậu Hán thư đã viết
và các bộ sử khác chép theo. Dân Lạc Việt đã biết làm ruộng, trồng lúa
nước (lúa gạo) và đã biết sử dụng điền khí trước khi người Trung Hoa đến
xâm lăng, chứ không phải người Trung Hoa dạy dân Lạc Việt dùng điền khí
để cày cấy. Lúc đó, dân Lạc Việt dùng lưỡi cày bằng đồng vì đồ đồng là
nghề luyện kim chính của dân Lạc Việt (vốn nổi tiếng về trống đồng), và
nhất là đồ sắt bị hạn chế, do việc bà Lữ hậu nhà Hán đã ra lệnh cấm xuất
cảng sắt xuống phía nam Trung Hoa từ năm 183 TCN.(Cương mục, tr. 92.)
Vậy phải chăng Nhâm Diên, thái thú Cửu
Chân (vùng châu thổ sông Mã), nơi có trung tâm trống đồng Đông Sơn
(Thanh Hóa), chứng kiến cảnh dân chúng địa phương đã cày cấy bằng lưỡi
cày bằng đồng theo mô thức Đông Sơn, rồi báo cáo như trên để lập công
với triều đình Trung Hoa?
- b) Điều thứ hai, Hậu Hán thư còn cho rằng người Việt “không có phép cưới hỏi… không quen thói sống chung với nhau nên không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng”, nên Nhâm Diên dạy dân Việt cưới hỏi theo lễ giáo. Tập tục cưới hỏi, cũng như các lễ nghi, tập quán trong đời sống mỗi sắc dân mỗi khác. Người cổ Việt có phong tục của người cổ Việt. Dân Trung Hoa có tập quán của dân Trung Hoa. Dưới thời Mã Viện cai trị cổ Việt, Hậu Hán thư (quyển 54) chép rằng: “Luật dân Việt và luật nhà Hán khác nhau đến hơn mười điều.”(13)
Những tập tục cưới hỏi của các bộ tộc
miền núi ở Việt Nam ngày nay, có thể xem là vết tích tập tục của người
cổ Việt còn được lưu truyền. Dầu theo mẫu hệ, những tập tục cưới hỏi nầy
khác với tập tục của những người ở miền đồng bằng (người Kinh), nhưng
không có gì là đồi phong bại tục, đáng để lên án hay đáng để thay thế.
Vì vậy, khi đô hộ cổ Việt, các nhà cai trị Trung Hoa bắt người cổ Việt
bỏ những tập tục cưới hỏi của người cổ Việt, và theo những tập tục cưới
hỏi Trung Quốc, là một sự áp đặt văn hóa thô bạo, chứ không phải là giáo
hóa cho người cổ Việt.
Duy có một điều chắc chắn là cưới hỏi
theo lễ giáo Trung Hoa, tức cưới hỏi theo phụ hệ, để “biết tình cha con,
đạo vợ chồng”, nghĩa là lập thành từng hộ gia đình nhỏ. Điều nầy đối
với những nhà đô hộ Trung Hoa có hai điều lợi cho công việc cai trị. Thứ
nhất, qua các hộ gia đình, nhà cầm quyền đô hộ nắm vững tình hình dân
số, tình hình an ninh địa phương. Thứ hai, nhà cầm quyền đô hộ sẽ dựa
vào số hộ dân để thu thuế theo cách mà Vệ Ưởng (Wei Yang) hay Thương
Ưởng (Shang Yang, 390-338 TCN), đã thiết lập tại Trung Hoa từ thế kỷ thứ
4 trước Công nguyên.(14) An ninh và thu thuế là hai mục đích hàng đầu của chế độ đô hộ bóc lột.
Ngoài Nhâm Diên, thái thú Tích Quang “lấy
lễ nghĩa dạy cho dân Man di ăn ở, tiếng giáo hóa cũng lừng lẫy…”. Lễ
nghĩa mà Tích Quang phổ biến cho dân chúng cổ Việt chắc chắn không ngoài
lễ nghĩa Nho giáo, với ba giềng mối chính là tam cương (vua tôi, chồng
vợ, cha con) và năm đạo chính là ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín).
Ai cũng biết Nho giáo là một triết thuyết chính trị hậu thuẫn cho chế
độ quân chủ, trong đó đứng đầu là đạo “trung quân”. Trung quân có nghĩa
là trung thành với vua. Lúc đó cổ Việt không có vua; chỉ có vua Trung
Hoa. Trung thành với vua Trung Hoa là mặc nhiên chấp nhận nền đô hộ của
Trung Hoa. Như thế, lễ giáo của Tích Quang cũng chỉ để ổn định xã hội và
phục vụ cho công cuộc thống trị của thực dân Trung Hoa.
Công việc “giáo hóa” của hai thái thú
Tích Quang và Nhâm Diên, nhất là việc áp dụng tục lệ cưới hỏi theo lễ
nghi Trung Hoa, bị người Việt chống đối. Một tờ trình của Tiết Tống
(Hsueh Tsung) vào năm 231, 5 năm sau khi Sĩ Nhiếp chết, gởi cho triều
đình Đông Ngô thời Tam quốc (213 – 280), cho rằng cho đến khi Tiết Tống
đến Giao Chỉ dưới thời Sĩ Nhiếp (Shi She) làm thái thú (từ 187 đến 226),
tức là sau mấy trăm năm đô hộ, ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa không đúng
theo như các báo cáo trước đó; người Giao Chỉ và Cửu Chân vẫn còn giữ
tục lệ gia đình của họ.(15)
Điều nầy không lạ, vì đến thế kỷ 15, Quốc
triều hình luật thời nhà Hậu Lê đã thừa nhận trong điều 40 rằng: “Người
“man liêu” là người sắc tộc thiểu số và tuy có văn hóa khác với dân
Việt, vẫn thuộc thành phần quốc dân Đại Việt…”(16) Hơn nữa, cho đến ngày nay, tức 20 thế kỷ sau, vùng rừng núi Việt Nam vẫn còn một số bộ tộc theo mẫu hệ, tập quán riêng của họ.
Như thế, chuyện Nhâm Diên dạy cho dân
Việt dùng điền khí để cày cấy, hay chuyện Nhâm Diên và Tích Quang giáo
hóa dân Việt, đều chỉ là những huyền thoại làm đẹp cho chế độ đô hộ.
Trong khi đó người Trung Hoa học cách cày cấy lúa nước của người Việt và
du nhập lúa nước vào Trung Quốc, làm phong phú sinh hoạt kinh tế Trung
Hoa.
Trong sách Ancient China (1967), tác giả
Edward H. Schafer viết rằng: “Thuật trồng lúa gạo và thuần hóa gia súc
chắc chắn [Trung Hoa] đã tiếp thu từ các sắc dân tầm thường ở miền nam
xa xôi hẻo lánh [nam Man].” (Nguyên văn: “The art of cultivating rice
and domesticating cattle were doubtless adopted from the despised races
of the remote south.”)(17a)
Cũng nhà nghiên cứu nầy cho rằng Đức
Khổng Tử (551-478 TCN), người tỉnh Sơn Đông (Shandong) vùng hạ lưu Hoàng
Hà và ở phía bắc sông Dương Tử, “sống chủ yếu bằng loại bánh làm bằng
kê”. (nguyên văn: “…Confucius have subsisted chiefly on millet cakes…”),
và “Khổng Tử chưa bao giờ thưởng thức trà, và chắc chắn rằng Vương
Xung, sáu thế kỷ sau, cũng thế.” (nguyên văn: “…Confucius never tasted
tea, and it is doubtful that Wang Ch’ung, six centuries later, did
either….”(17b) Trà là loại giải khát cũng phát xuất từ miền nam.
Chủ trương bóc lột của triều đình Trung
Hoa khi nặng khi nhẹ, tùy hoàn cảnh và tùy tư cách của các thái thú
Trung Hoa, có người tốt kẻ xấu, nhưng thực chất trước sau cũng đều chỉ
nhắm mục đích vơ vét cho Trung Hoa. Chính sách bóc lột nầy lên cao điểm
khi vua Hán Quang Võ (Han Guang Wu) cử Tô Định (Su Ding) sang làm thái
thú Giao Chỉ năm 34 (giáp ngọ). Tô Định rất tham tàn và hà khắc, áp dụng
chủ trương khai thác và bóc lột một cách triệt để, đã đưa đến cuộc khởi
nghĩa giành độc lập đầu tiên năm 40 (canh tý) của dân cổ Việt do Hai Bà
Trưng lãnh đạo.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng bị thất
bại năm 43 (quý mão). Sau đó, trong suốt mười thế kỷ, người Việt nhiều
lần nổi lên chống quân xâm lược Trung Hoa: Triệu Thị Trinh (248), Lý Nam
Đế (541), Lý Phật Tử (603), Lý Tự Tiên (602), Mai Thúc Loan (727),
Phùng Hưng (767), Dương Thanh (819), Vương Thắng Triều (828), Khúc Thừa
Dụ (905) Dương Diên Nghệ (931). Cuối cùng, Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam
Hán năm 938 (mậu tuất), thực hiện được giấc mộng độc lập của dân tộc
Việt.
Kết luận
Tóm lại, đối với người Việt, đại nạn
Trung Hoa bắt đầu từ thời cổ sử. Ngay khi mới thống nhất Trung Hoa,
triều đình nhà Tần đã chủ trương bành trướng và đưa quân vượt sông Dương
Tử, chiếm Bách Việt, tiến xuống xâm lăng cổ Việt. Trong suốt hơn 1,000
năm đô hộ cổ Việt, từ năm 208 trước Công nguyên đến năm 938 sau Công
nguyên, các thái thú Trung Hoa không ngừng vơ vét tài nguyên cổ Việt để
cung ứng cho triều đình Trung Hoa.
Tuy người Việt đã đánh đuổi được quân
Trung Hoa ra khỏi nước để giành lấy độc lập tự chủ, nhưng sau hơn một
ngàn năm đô hộ nước Việt, người Trung Hoa vẫn mang một số định kiến lạ
lùng đối với người Việt.
Thứ nhất, cho đến thế kỷ 20, mà một nhà
cách mạng dân chủ như bác sĩ Tôn Văn (1866-1925), đã nói với Khuyển
Dưỡng Nghị (chính khách Nhật Bản): “Người Việt Nam vốn nô lệ căn tính.
Ngày xưa họ bị chúng tôi đô hộ, ngày nay họ bị Pháp đô hộ. Dân tộc ấy
không có tương lai.”(18) Thật là một câu nói ngạo mạn!
Thứ hai, các nhà cầm quyền Trung Hoa tự
cho rằng nước Việt là một phiên thuộc của Trung Hoa, một phần đất của
Trung Hoa. Khi Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ Việt Nam, buộc triều đình nhà
Nguyễn ký hòa ước năm 1874, Pháp báo hòa ước nầy cho triều đình nhà
Thanh ngày 24-5-1875. Triều đình nhà Thanh trả lời rằng: “Chí Giao Chỉ
tức Việt Nam bổn hệ Trung Hoa thuộc quốc.” (tạm dịch nghĩa: “Từ Giao Chỉ
đến Việt Nam vốn là thuộc quốc của Trung Hoa.”)(19) Vì vậy nhà Thanh đòi hỏi Pháp phải thương thuyết với Trung Hoa về vấn đề Việt Nam.
Năm 1939, trong một tài liệu của đảng
Cộng Sản Trung Hoa, tựa đề là “Cách mạng Trung Quốc và đảng Cộng Sản
Trung Quốc”, lãnh tụ đảng CSTH là Mao Trạch Đông đã xác quyết: “Các nước
đế quốc, sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của
Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ,
và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Hương Cảng, Pháp chiếm
An-Nam.”(20)
Do những định kiến ưu quyền trịch thượng
đối với Việt Nam, các nhà cầm quyền Trung Hoa luôn luôn có dã tâm xâm
lăng Việt Nam, mà không để cho người Việt yên sống hòa bình.
Chú thích:
- 1. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, (viết tắt: Cương mục), (Chữ Nho), Hà Nội: bản dịch của Nxb. Giáo Dục, 1998, tập 1, tt. 80-89. 2. Ngô Thời Sỹ, Việt sử tiêu án, bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Sài Gòn, San Jose: Văn Sử tái bản, 1991, tr. 34. 3. Nguyễn Phương, Việt Nam thời khai sinh, Huế: Phòng Nghiên cứu Sử, Viện Đại Học, 1965, tr. 235. 4. Carleton S. Coon & Edward E. Hunt J., The Living Races of Man, New York: Nxb. Alfred A. Knopf, 1966, đồ bản 12, tr. 286. 5. Encyclopedia Britannica, 1999, (CD), “Vietnam History…” 6. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư [chữ Nho], Hà Nội: bản dịch Nxb. Khoa học Xã hội, 1998, tr. 178. Nếu trung bình một đời (một thế hệ) là 23 đến 25 năm, thì 7 đời là từ 161 đến 175 năm. Nhà Hán (Han, 202 TCN – 220) ở Trung Hoa được chia thành 2 giai đoạn: Tiền Hán hay Tây Hán (Former Han, 202 TCN – 25) và Hậu Hán hay Đông Hán (Later Han, 25-220). Giữa Tiền Hán và Hậu Hán, từ năm 9 đến năm 23 là thời gian do Vương Mãng (Wang Mang) đảo chánh và cầm quyền. 7. Bên Trung Hoa, nhà Đường (Tang) chấm dứt năm 907 khi Chu Toàn Trung (Chu Ch’uan-chung) đảo chánh, lật đổ Đường Ai Đế (trị vì 904-907), tự mình lên làm vua, tức Lương Thái Tổ (trị vì 907-914), lập ra nhà Hậu Lương (907-923). Từ đó Trung Hoa rơi vào tình trạng hết sức xáo trộn gọi là đời Ngũ đại Thập quốc. Ở miền bắc Trung Hoa có năm triều đại kế tiếp nhau trong thời gian ngắn là Hậu Lương (907- 923), Hậu Đường (923-935), Hậu Tấn (936-947), Hậu Hán (948-950), Hậu Châu (951-959). Ở miền nam Trung Hoa, trước sau mười nước được thành lập, nên gọi là Thập quốc: so với ngày nay nước Ngô ở An Huy, Tiền Thục ở Tứ Xuyên, Ngô Việt ở Chiết Giang, Sở ở Hồ Nam, Mân Việt ở Phúc Kiến, Nam Hán ở Quảng Đông, Nam Bình ở Hồ Bắc, Hậu Thục ở Tứ Xuyên, Nam Đường ở Giang Tô và Bắc Hán ở Sơn Tây. Nước Nam Hán do Lưu Cung thành lập năm 917 ở Quảng Đông, là nước chiếm đóng Giao Châu. Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán năm 938, giành độc lập vĩnh viễn. 8. Người Trung Hoa luôn luôn tự hào và gọi các sắc dân chung quanh là đông Di, tây Địch, bắc Nhung, nam Man. 9. Nguyễn Phương trích dịch, sđd. tt. 186-187. 10. Lê Tắc, An Nam chí lược [chữ Nho],Huế: Uỷ ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam,Viện Đại học Huế, phiên âm và dịch nghĩa, 1961, tr. 39. 11. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TpHCM, 1997, tt. 75-86. 12. Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam [Việt Nam khai sinh], University of California Press, 1983, tr. 35. 13. Nguyễn Phương, sđd. trích dịch, tr. 137. 14. Bên Trung Hoa, thời Chiến quốc (479-221 TCN), tại nước Tần, dưới đời Tần Hiếu Công (cầm quyền 361-338 TCN), tể tướng Thương Ưởng (390-338 TCN), bày ra cách tổ chức hộ khẩu để thu thuế. Đến đời Đường, từ thế kỷ thứ 7 mới bỏ thuế theo sổ hộ khẩu, đặt ra thuế “dung” đánh vào từng cá nhân (tức thuế đinh). 15. Keith Weller Taylor, sđd. tr. 75. Về việc nầy, tác giả Taylor căn cứ trên sách Tam quốc chí của Trần Thọ. (Sách nầy khác với Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung là một bộ tiểu thuyết.) 16. Nguyễn Ngọc Huy, Quốc triều hình luật, phiên âm, dịch nghĩa và chú thích, Viet Publisher Thư Quán, Hoa Kỳ, tr. 188. 17. Edward H. Schafer, Ancient China, New York: Time-Life Books, 1967, tr. 16 (17a), tt. 37, 38 (17b). Wang Ch’ung tức Vương Xung (27-97), triết gia thời Đông Hán (25-220) là tác giả nhiều sách lý luận về triết học, trong đó quan trọng nhất là bộ Luận hoành (Lun Heng, 30 quyển). Hoành là cái cân, nghĩa rộng là cân nhắc, so sánh. 18. Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, [nguyên bản bằng Anh văn], bản dịch của Mạc Định, Paris: 1962, tr. 22. 19. Yoshiharu Tsuboii, Nước Đại Nam đối diện với Trung Hoa, Nguyễn Đình Đầu dịch, TpHCM: Ban Khoa Học Xã Hội, 1990, tr. 142. 20. Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua [tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, không đề tên tác giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.
Đại nạn Trung Hoa thời trung sử
Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán (Trung
Hoa) tại Bạch Đằng Giang năm 938 (mậu tuất) và xưng vương năm 939 (kỷ
hợi), đóng đô ở Cổ Loa (thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay). Từ đây,
nước Việt vĩnh viễn thoát ra khỏi cảnh đô hộ của Trung Hoa, nhưng các
triều đình Trung Hoa vẫn tiếp tục nhiều lần đem quân sang xâm lấn nước
Việt.
Lần thứ nhất (981)
Sau cuộc đảo chánh không đổ máu lật đổ
nhà Đinh (968-980), Lê Hoàn lên làm vua năm 980 (canh thìn), tiếp tục
đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình ngày nay). Về sau, ông thường được sử sách
gọi là Lê Đại Hành.
Biết tình hình Đại Cồ Việt (quốc hiệu từ
thời vua Đinh Tiên Hoàng) đang xáo trộn vì chuyện đổi ngôi, vua Trung
Hoa là Tống Thái Tông (trị vì 976-997) sai sứ đem thư qua khuyến dụ và
đe dọa. Lê Hoàn (trị vì 980-1005) lấy danh nghĩa con của vua Đinh Tiên
Hoàng là Vệ Vương Đinh Toàn, xin nhà Tống (Sung, 960-1279) cho nối ngôi
vua cha. Tuy nhiên triều đình nhà Tống nắm rõ tình thế nước Nam, biết Lê
Hoàn đã giành ngôi của Đinh Toàn, con của Đinh Tiên Hoàng, nên sai
người đem một thư khác qua nói rằng “…Họ Đinh truyền nối được ba đời [ý
chỉ Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Đinh Toàn], trẫm muốn cho Đinh Toàn làm
thống súy, khanh [chỉ Lê Hoàn] thì làm phó. Nếu Đinh Toàn không đáng
tướng tài, hãy còn tính khí trẻ con thì nên cho ngay mẹ con và thân
thuộc y sang đây…”
Lê Hoàn biết không thể tiếp tục thương
lượng, nên chỉ còn con đường duy nhất là chuẩn bị lực lượng để kháng
Tống. Trong khi đó, quân Tống chia làm hai đường thủy bộ tiến vào nước
ta năm 981 (tân tỵ). Đường bộ do Hầu Nhân Bảo cùng Tôn Toàn Hưng tiến
theo ngả Lạng Sơn, còn đường thủy do Trần Khâm Tộ và Lưu Trừng từ mặt
biển tiến vào bằng đường sông Bạch Đằng.
Trên đường bộ, Hầu Nhân Bảo tiến đến Chi
Lăng (Lạng Sơn), trúng phải kế trá hàng, lọt vào vùng phục kích của quân
Việt, và bị bắt giết. Quân Việt phản công mạnh mẽ, quân Tống thiệt hại
nặng, hai bộ tướng của Hầu Nhân Bảo là Quách Quân Biện và Triệu Phụng
Huân bị bắt. Sau trận Chi Lăng, các lực lượng thủy bộ của nhà Tống đều
rút lui.
Tuy chiến thắng, Lê Hoàn vẫn phải sai sứ,
dưới danh nghĩa của vua Đinh Toàn, sang nhà Tống năm 982 (nhâm ngọ) xin
trả lại hai tướng đã bắt được, và xin triều cống. Nhà Tống chỉ phong
cho Lê Hoàn làm tiết độ sứ. Mãi đấn hơn 10 năm sau vào năm 993 (quý tỵ),
Lê Hoàn mới sai sứ giả trình bày với vua Tống rằng Đinh Toàn quyết định
nhường ngôi cho mình. Tống Thái Tông (trị vì 976-997) biết việc Lê Hoàn
nắm quyền đã lâu, nhưng không có cách gì khác hơn, nên sai sứ sang
phong Lê Hoàn làm Tĩnh Hải Quân tiết độ sứ Giao Chỉ Quận Vương.
Lần thứ hai (1076-1077)
Trong thời gian nầy nhà Tống tiếp tục cai
trị Trung Hoa. Vua Tống Thần Công (trị vì 1068-1085) phong cho Vương An
Thạch (Wang An Shi) làm tể tướng năm 1069. Vương An Thạch (1021-1086)
muốn mưu tìm một chiến công ở ngoài biên cương để hỗ trợ chính sách cải
cách ở trong nước của ông ta, chuẩn bị tấn công Đại Việt.
Tại Đại Việt, nhà Lý (1010-1225) đã khá
vững vàng. Triều đình vua Lý Nhân Tông (trị vì 1072-1127) biết được tin
nầy, liền quyết định ra tay trước. Tháng 11 năm ất mão (1075), triều
đình cử Lý Thường Kiệt đánh Khâm Châu và Liêm Châu (thuộc Quảng Đông
ngày nay); và cử Tôn Đản đánh Ung Châu (tức Nam Ninh thuộc Quảng Tây
ngày nay) tháng giêng năm bính thìn (1076). Sau khi hạ thành, cả hai ông
cho bắt người, lấy của rồi rút lui về Đại Việt.
Tháng chạp năm bính thìn (đầu năm 1077),
Tống Thần Tông sai Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ và Triệu Tiết làm Phó
chiêu thảo sứ, đem quân sang trả thù. Lý Thường Kiệt chận quân Tống ở
sông Như Nguyệt (sông Cầu chảy qua xã Như Nguyệt, Bắc Ninh).
Quách Quỳ chuyển quân đến sông Phú Lương
(khúc sông Hồng ở Thăng Long). Lý Thường Kiệt tiếp đánh, nhưng thế giặc
rất mạnh. Máy bắn đá của địch phá chiến thuyền Việt, và làm cho nhiều
binh sĩ nước ta tử trận. Sợ binh sĩ nãn lòng, Lý Thường Kiệt phao tin có
thần nhân báo mộng và cho bốn câu thơ (bằng chữ Nho):
“Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ”
Có người dịch là:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.“
Quân lính nghe được những câu thơ nầy,
đều hăng hái đánh giặc. Lực lượng nhà Tống bị chận đứng. Hai bên cầm cự
với nhau bất phân thắng bại. Triều đình nhà Lý đề nghị bãi binh. Nhà
Tống thấy khó thắng, đồng thời binh sĩ ở lại lâu, không hạp thủy thổ,
đành chấp thuận. Như thế, cuộc xâm lăng của nhà Tống đầu năm 1077 bắt
nguồn từ việc Lý Thường Kiệt cầm quân gây hấn nhà Tống một năm trước đó.
Lần thứ ba (1258)
Phía tây bắc Trung Hoa, tại Mông Cổ, đại
hãn Mông Kha (Mangu, trị vì 1251-1259) cử em là Hốt Tất Liệt (Qubilai)
cầm quân tấn công Trung Hoa năm 1251. Hốt Tất Liệt sai đại tướng Ngột
Lương Hợp Thai (Uriyangqadai), cầm một cánh quân đánh chiếm nước Đại Lý ở
Vân Nam năm 1257. Ngột Lương Hợp Thai sai sứ sang yêu cầu Đại Việt thần
phục Mông Cổ, nhưng vua Đại Việt lúc đó là Trần Thái Tông (trị vì
1226-1258) không chịu.
Ngột Lương Hợp Thai liền theo đường sông
Thao, tiến quân đánh nước Việt tháng 12 năm đinh tỵ (qua năm 1258).
[Sông Thao là tên gọi đoạn sông Hồng từ biên giới Hoa Việt đến ngã ba
sông Hồng và sông Đà.] Không chịu nổi sức tấn công vũ bão của quân Mông
Cổ, Trần Thái Tông bỏ kinh đô Thăng Long rút về Hưng Yên, cách Thăng
Long khoảng 60 km về phía nam. Quân Mông Cổ chiếm Thăng Long, cướp phá
giết hại người Việt không kể già trẻ lớn nhỏ.
Trước thế nguy, Trần Thái Tông hỏi ý kiến
của Trần Thủ Độ nên hòa hay chiến. Ông cương quyết trả lời: “Đầu thần
chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo.” Chẳng bao lâu, quân Mông Cổ không quen
thời tiết nước ta, bị bệnh tật mỏi mệt. Trần Thái Tông ra lệnh phản
công, đánh đuổi quân Mông Cổ về lại Trung Hoa.
Lần thứ tư (1285)
Năm 1259, Mông Kha từ trần. Hốt Tất Liệt
được hội đồng quý tộc Mông Cổ bầu lên làm đại hãn năm 1260. Hốt Tất Liệt
tức Nguyên Thế Tổ (trị vì 1260-1294), đổi quốc hiệu là Nguyên (Yuan),
đem quân xâm chiếm hoàn toàn nước Trung Hoa vào năm 1279.(1)
Trong khi đó, tại nước ta, Trần Thái Tông
nhường ngôi cho con là Trần Hoảng, lên làm thái thượng hoàng năm 1258
(mậu ngọ). Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông (trị vì 1258-1278).
Thượng hoàng Thái Tông từ trần năm 1277 (đinh sửu). Thánh Tông lên làm
thái thượng hoàng, và nhường ngôi cho thái tử Trần Khâm năm 1278 (mậu
dần) tức Trần Nhân Tông (trị vì 1278-1293).
Nguyên Thế Tổ sai sứ là Sài Thung (Chai
Chong) sang Đại Việt cuối năm 1278, hỏi vua Trần Nhân Tông tại sao không
xin phép nhà Nguyên mà tự tiện lên ngôi? Sài Thung còn buộc nhà vua
phải sang chầu hoàng đế nhà Nguyên mới được yên việc. Trần Nhân Tông
tiếp sứ tử tế, nhưng cương quyết không chịu sang chầu nhà Nguyên.
Năm 1282 (nhâm ngọ), nhà Nguyên cử sứ
sang nói rằng nếu vua nhà Trần không sang Trung Hoa, thì cho người đại
diện sang chầu. Trần Nhân Tông cử chú họ là Trần Di Ái cầm đầu phái đoàn
sang triều đình nhà Nguyên. Nguyên Thế Tổ lập tòa tuyên phủ ty, đặt
quan để sang giám trị các châu huyện nước ta. Nhân Tông không nhận, trả
họ về Trung Hoa. Nguyên Thế Tổ liền phong Trần Di Ái làm An Nam quốc
vương, và sai Sài Thung đem 1,000 quân, hộ tống Trần Di Ái về nước. Sài
Thung đi vào bằng đường Lạng Sơn. Quân nhà Trần chận đánh; Sài Thung bị
bắn mù một mắt, phải quay về nước, còn Trần Di Ái bị bắt.
Lúc đó, Nguyên Thế Tổ muốn bành trướng
xuống Đông Nam Á, nhân cơ hội nầy, phong cho con là Thoát Hoan (Toyan)
làm Trấn Nam Vương, lấy cớ mượn đường xuống Chiêm Thành, đem quân tấn
công nước Việt tháng 12 năm giáp thân (qua năm 1285). Lần nầy quân
Nguyên tấn công bằng hai đường: Thoát Hoan từ phía bắc đánh xuống, Toa
Đô (Sogatu) đã qua đánh Chiêm Thành bằng đường biển từ năm 1282, nay
quay ngược trở lên đánh Đại Việt.
Thoát Hoan dẫn quân qua ải Chi Lăng (Lạng
Sơn), nhắm Thăng Long trực chỉ. Tướng Trần Quốc Tuấn (Hưng Đạo Vương)
lui về Vạn Kiếp (Hải Dương, nơi sông Lục Nam và sông Thương gặp nhau).
Trần Nhân Tông cho người mời Trần Quốc Tuấn đến bảo: “Thế giặc mạnh như
vậy, ta hãy chịu hàng để cứu muôn dân.” Trần Quốc Tuấn trả lời: “Nếu bệ
hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước hãy hàng.”
Quân Mông Cổ đánh hạ Vạn Kiếp, tiến chiếm
Thăng Long. Trần Quốc Tuấn rước vua về phía nam, xuống Thanh Hoa (sau
nầy là Thanh Hóa). Toa Đô từ Chiêm Thành đem quân tiến lên, bị Chiêu Văn
Vương Trần Nhật Duật (em vua Thánh Tông) chận đánh ở cửa Hàm Tử (Đông
An, Hưng Yên). Trần Quốc Tuấn liền đề nghị nhân đà thắng lợi nầy, tung
quân khôi phục kinh thành. Trần Nhân Tông sai thượng tướng Trần Quang
Khải (em vua Thánh Tông, anh của Nhật Duật) cùng với Trần Quốc Toản,
Phạm Ngũ Lão, đem quân từ Thanh Hoa đi vòng theo đường biển, ngược sông
Hồng tiến đánh quân Mông Cổ tại bến Chương Dương (khu vực Thăng Long),
rồi lên bộ bao vây thành Thăng Long. Thoát Hoan thua chạy lên Kinh Bắc.
Trong khi đó, Trần Quốc Tuấn đánh Toa Đô tại Tây Kết (vùng Hưng Yên ngày
nay). Toa Đô bị giết, Ô Mã Nhi (Omar) bỏ trốn. Trần Quốc Tuấn tiếp tục
phản công, sai hai tướng Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão phục binh đánh tan
quân Thoát Hoan ở Vạn Kiếp, trước khi Thoát Hoan trốn về nước.
Lần thứ năm (1288)
Tức giận về sự thất bại vừa qua, Nguyên
Thế Tổ cử Thoát Hoan một lần nữa cầm quân qua đánh phục thù vào tháng 11
năm đinh hợi (1287). Quân nhà Nguyên tiến vào nước ta bằng ba hướng: ở
giữa, Thoát Hoan tiến xuống Lạng Sơn; phía tây, một cánh quân từ Vân Nam
theo đường sông Hồng tràn vào, do Ái Lỗ (Aruc) chỉ huy; và phía đông do
Ô Mã Nhi đi trước, vượt biển Đông tiến vào sông Bạch Đằng. Theo sau có
Trương Văn Hổ tải 17 vạn thạch lương cung cấp cho quân sĩ.
Lực lượng nhà Trần vẫn do Trần Quốc Tuấn
tổng chỉ huy. Thoát Hoan chiếm Vạn Kiếp, sai Ô Mã Nhi theo sông Lục Đầu
đánh xuống Thăng Long. Thượng hoàng cùng vua Trần Nhân Tông phải vào
Thanh Hoa lánh nạn. Quân Mông Cổ đốt phá Thăng Long rồi rút lui về Vạn
Kiếp.
Ô Mã Nhi đem chiến thuyền trở ra biển đón
thuyền lương của Trương Văn Hổ. Ngang qua Vân Đồn (Quảng Yên, nay là
Vân Hải, Quảng Ninh), Trần Khánh Dư chận đánh, nhưng quân Việt bị thua.
Gặp được thuyền lương, Ô Mã Nhi cùng Trương Văn Hổ quay trở vào đất
liền. Rút kinh nghiệm vừa qua, Trần Khánh Dư để cho Ô Mã Nhi mở đường đi
trước, đợi đến khi Trương Văn Hổ tải lương theo sau, Trần Khánh Dư mới
đổ phục binh, cướp hết lương thực và khí giới. Trương Văn Hổ bỏ trốn về
Trung Hoa.
Quân Nguyên càng ngày càng cạn lương
thực. Thoát Hoan kiếm cách cầu viện triều đình nhà Nguyên, nhưng Trần
Quốc Tuấn đã cho chận các đường giao thông ở Lạng Sơn. Thoát Hoan liền
quyết định rút quân. Tháng 3 năm mậu tý (1288) Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi
xuôi sông Bạch Đằng, ra biển về trước. Trần Quốc Tuấn theo kế Ngô Quyền
trước kia, sai Nguyễn Khoái dùng cọc gỗ đẽo nhọn rồi bịt sắt và cắm giữa
dòng sông. Nguyễn Khoái lừa Ô Mã Nhi đến chỗ phục binh có đóng cọc, đổ
quân tấn công khi thủy triều xuống. Trần Quốc Tuấn lại tăng viện, đánh
tan chiến thuyền Mông Cổ, và bắt sống Ô Mã Nhi.
Được tin nầy, Thoát Hoan liền theo đường
bộ rút quân về Trung Hoa. Dọc đường quân Mông Cổ bị chận đánh một vài
nơi, nhưng cuối cùng Thoát Hoan cũng thoát được. Trần Quốc Tuấn hội các
tướng, dẫn quân rước vua Trần Nhân Tông và thượng hoàng Thánh Tông trở
về Thăng Long.
Lần thứ sáu (1407)
Năm 1400 (canh thìn), đại thần Lê Quý Ly
tức Hồ Quý Ly lật đổ vua Trần Thiếu Đế (trị vì 1398-1400), chấm dứt nhà
Trần. Nhà Trần bắt đầu từ vua Thái Tông (trị vì 1225-1258) đến vua Thiếu
Đế, truyền được mười hai đời, trong 175 năm.
Lê Quý Ly lên làm vua, đặt niên hiệu là
Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu từ Đại Việt thành Đại Ngu, lấy lại họ Hồ là
họ của tổ tiên ông, tức Hồ Quý Ly. Làm vua được một năm, Hồ Quý Ly lên
làm thái thượng hoàng, nhường ngôi lại cho con là Hồ Hán Thương (trị vì
1401-1407).
Trong khi đó, bên Trung Hoa, Minh Thái Tổ
(trị vì 1368-1398) qua đời năm 1398, cháu nội lên kế vị là Minh Huệ Đế
(trị vì 1399-1403). Huệ Đế làm vua chẳng được bao lâu thì bị người chú,
con của Minh Thái Tổ, lật đổ và thay thế, tức Minh Thành Tổ (trị vì
1403-1424). Minh Thành Tổ là một người đầy tham vọng, còn tham vọng hơn
cả Minh Thái Tổ.
Bang giao Việt Hoa càng ngày càng căng
thẳng vì nhà Minh đòi hỏi nhiều điều quá đáng. Năm 1404 (giáp thân), một
hoàng thân nhà Trần là Trần Khang, dùng đường bộ trốn sang kinh đô
Trung Hoa, đổi tên là Trần Thiêm Bình, tự xưng là con của Trần Nghệ
Tông, tố cáo Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần và tố cáo những lời trần tình
của Hồ Hán Thương là dối trá.
Minh Thành Tổ sai Lý Kỳ sang nước Việt
thăm dò. Lý Kỳ sang nắm tình hình, rồi về nước phúc trình cuộc đảo chánh
của nhà Hồ. Hồ Hán Thương gởi biểu qua nhà Minh tạ tội, và xin đón
Thiêm Bình về làm vua. Năm 1406 (bính tuất) Minh Thành Tổ sai tướng Hàn
Quan, đem năm ngàn quân hộ tống Trần Thiêm Bình về nước. Trần Thiêm Bình
vừa về đến biên giới, liền bị Hồ Hán Thương ra lệnh bắt giết. Hồ Hán
Thương cử Trần Cung Túc cầm đầu phái bộ sang Trung Hoa biện bạch về sự
giả trá của Trần Thiêm Bình. Phái bộ bị nhà Minh giữ lại không cho về.
Tháng 9 năm đó (bính tuất), Minh Thành Tổ
cử Chu Năng làm đại tướng, cùng hai phó tướng là Trương Phụ và Mộc
Thạnh đem quân sang xâm lăng nước ta. Trước khi qua biên giới, Chu Năng
bị bệnh từ trần, Trương Phụ được cử lên thay. Quân Minh tiến xuống thành
Đa Bang (Sơn Tây), một đồn lũy được Hồ Hán Thương cho xây năm 1405 (ất
dậu), làm tiền đồn bảo vệ Thăng Long. Trương Phụ và Mộc Thạnh chia nhau
hai mặt tấn công Đa Bang. Khi quân Việt dùng voi phản công, quân Minh
dùng hỏa pháo bắn lại. Voi sợ lửa bỏ chạy. Thành Đa Bang thất thủ, đưa
đến việc thất thủ Thăng Long.
Hồ Nguyên Trừng, con trai đầu của Hồ Quý
Ly, anh của Hồ Hán Thương, đem quân chận người Minh ở sông Mộc Phàm (Mộc
Hoàn, Hà Nam ngày nay), nhưng bị thua phải lui về cửa biển Muộn Hải,
Nam Định. Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương cùng các quan bỏ chạy vào Thanh
Hóa. Quân Minh đuổi theo. Hai bên gặp nhau ở Lỗi Giang, một phân lưu của
sông Mã (Thanh Hóa). Quân nhà Hồ thua nữa. Hồ Quý Ly cùng hai con chạy
vào Nghệ An. Tháng 5 năm đinh hợi (1407), quân Minh bắt được Hồ Quý Ly ở
cửa biển Kỳ La (huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh), và bắt Hồ Hán Thương ở núi Cao
Vọng (huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh), cùng toàn bộ gia đình họ Hồ. Quân Minh
không giết cha con Hồ Quý Ly mà chỉ giải về Trung Hoa.
Cần chú ý là khi xâm lăng nước Việt lần
nầy, Minh Thành Tổ đã đưa ra cho các tướng viễn chinh ba chỉ dụ đề ngày
21-8-1406, 16-6-1407 và 24-6-1407 căn dặn và nhắc nhở các tướng Minh thi
hành chính sách đồng hóa của nhà Minh và tiêu diệt toàn bộ văn hóa nước
Việt. Chẳng những quân Minh vơ vét của cải, vàng ngọc, mà còn tịch thu
gần như toàn bộ sách vở văn chương, học thuật, tư tưởng và cả giới trí
thức cũng như nghệ nhân người Việt đem về Trung Hoa. Đây là chính sách
đồng hóa của nhà Minh trên toàn cõi đế quốc của họ.(Sẽ viết trong bài
tiếp.)
Lần thứ bẩy (1788)
Nguyên vào năm 1786 (bính ngọ), Nguyễn
Huệ dẫn quân Tây Sơn ra bắc lần thứ nhất, đánh tan quân Trịnh, tỏ ý phù
Lê. Trong khi quân Tây Sơn còn ở Bắc hà, vua Lê Hiển Tông (trị vì
1740-1786) từ trần, cháu đích tôn lên thay là Lê Chiêu Thống (trị vì
1787-1788). Khi quân Tây Sơn rút về, họ Trịnh nổi lên trở lại. Lê Chiêu
Thống viết thư nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh, một cựu tướng nhà Lê, nay đã đầu
quân theo Tây Sơn, đang đóng ở Nghệ An, ra Thăng Long, giúp diệt trừ họ
Trịnh.
Chụp lấy thời cơ, Nguyễn Hữu Chỉnh đánh
đuổi nhanh chóng quân chúa Trịnh, và trở nên chuyên quyền không khác gì
họ Trịnh. Được tin nầy, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai tướng Võ Văn Nhậm
cùng với Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh vào cuối năm
1787 (đinh mùi). Hữu Chỉnh bị bắt giết, vua Lê Chiêu Thống bỏ trốn. Võ
Văn Nhậm đặt Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận, chú của Chiêu Thống và là anh
của bà Ngọc Hân (vợ Nguyễn Huệ), lên làm giám quốc, đứng đầu triều đình
nhà Lê.
Vua Chiêu Thống trốn lẩn quẩn ở vùng Lạng
Giang. Mẹ của vua Chiêu Thống (hoàng thái hậu) bồng con của nhà vua
chạy sang Long Châu (Trung Hoa) cầu cứu nhà Thanh (1644-1911). Tổng đốc
Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị trình lên vua Thanh Cao Tông tức Càn Long
(Ch’ien-lung / Qianlong, trị vì 1736-1795) rằng đây là cơ hội thuận
tiện, mượn cớ giúp Lê Chiêu Thống để xâm chiếm “An Nam”. Vua Càn Long,
liền ra lệnh cho Sĩ Nghị động binh bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý
Châu và Vân Nam tiến đánh Đại Việt tháng 10 năm mậu thân (1788). Tôn Sĩ
Nghị chia quân làm ba đạo, vào nước ta bằng các đường Tuyên Quang, Cao
Bằng và Lạng Sơn.
Trước sức tiến quân ồ ạt của Tôn Sĩ Nghị,
Ngô Văn Sở theo kế hoạch của Ngô Thời Nhậm, một mặt cho người đưa thư
đến Tôn Sĩ Nghị xin hoãn binh, vừa để kéo dài thời gian, vừa để nhử
địch, một mặt khác bỏ ngỏ Thăng Long, rút quân về Tam Điệp ở Ninh Bình,
bảo toàn lực lượng, chờ viện binh của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
Tôn Sĩ Nghị tiến quân đến Kinh Bắc (Bắc
Ninh). Vua Chiêu Thống ra đón tiếp và cùng Tôn Sĩ Nghị vào Thăng Long
ngày 20-11-mậu thân (17-12-1788). Hai ngày sau, 22-11 (19-12), Tôn Sĩ
Nghị làm lễ tấn phong cho Lê Chiêu Thống làm An Nam quốc vương.
Được tin nầy, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng
đế tại Phú Xuân ngày 25-11-mậu thân (22-12-1788), lấy hiệu là Quang
Trung (trị vì 1788-1792), rồi tự mình đem quân tiến ra Bắc, nhanh chóng
đánh đuổi tan tác quân viễn chinh nhà Thanh, tạo nên chiến thắng Đống Đa
lịch sử (mồng 5 tháng giêng năm kỷ dậu, 1789), giải phóng Thăng Long và
giữ vững bờ cõi nước ta.
Kết luận
Như thế, từ năm 939 (Ngô Quyền xưng
vương) cho đến năm 1788 (Quang Trung xưng vương), trong vòng 850 năm,
các triều đình Trung Hoa đã gởi quân xâm lăng nước Việt chúng ta tất cả
bảy lần. Chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:
1) Khi nào nước Việt có
sự thay đổi triều đại, hay tranh chấp quyền lực nội bộ, hay nước Việt
suy yếu, các vua Trung Hoa liền lợi dụng thời cơ để xâm lăng, nhất là
khi con cháu của các triều đại bị truất phế chạy qua Trung Hoa cầu cứu.
2) Dù lúc tấn công nước
Việt, lực lượng Trung Hoa rất mạnh, như dưới thời nhà Nguyên (Mông Cổ),
nhà Minh, hay nhà Thanh, dù người Việt lúc đầu thất bại và phải rút lui,
nhưng tổ tiên chúng ta luôn luôn cương quyết đánh đuổi xâm lăng Trung
Hoa, dù phải kháng chiến gian khổ để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ
tổ quốc.
3) Trong sáu lần Trung
Hoa tấn công nước ta, lần đầu tiên do triều đình Trung Hoa muốn trả đũa
việc Lý Thường Kiệt đem quân tấn công Trung Hoa trước. Từ kinh nghiệm
nầy, sau đời nhà Lý, các triều đại từ nhà Trần trở đi, tuy cương quyết
duy trì chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc, nhưng không khiêu khích,
để tránh bị bắc phương trả đũa. Chỉ khi nào bắc phương xâm lăng, thì Đại
Việt chống trả. Đặc biệt là sau khi đánh đuổi quân Trung Hoa về nước,
Đại Việt vẫn gởi sứ thần sang Trung Hoa ngoại giao, mà ngày xưa gọi là
triều cống, để tránh tái diễn chiến tranh.
4) Những kinh nghiệm
chống quân xâm lược Trung Quốc đã được Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn, trước khi từ trần năm 1300, tóm lược với vua Trần Anh Tông: “Đại
khái quân giặc cậy vào trường trận, quân ta cậy vào đoản binh, đem đoản
binh đánh lại trường trận, là việc thường trong binh pháp. Nhưng cần
phải xét: nếu thấy quân giặc tràn sang như gió, như lửa, thì thế giặc có
thể dễ chống cự được; nếu giặc dùng cách chiếm cứ dần, như tằm ăn dâu,
không vơ vét của dân, không mong đánh được ngay, thì mình phải dùng
tướng giỏi, phải xem xét tình thế biến chuyển như người đánh cờ, tùy
theo thời cơ mà chế biến cho đúng, làm thế nào thu hút được binh lính
như cha với con một nhà, mới có thể dùng để chiến thắng được. Vả lại bớt
dùng sức dân để làm cái kế thâm căn cố đế, đó là thượng sách giữ nước
không còn gì hơn.” (2)
Theo Trần Hưng Đạo, Trung Hoa xâm lăng
nước ta bằng hai cách: Thứ nhất, quân Trung Hoa “tràn sang như gió, như
lửa”. Thứ hai, quân Trung Hoa “chiếm cứ dần, như tằm ăn dâu, không vơ
vét của dân, không mong đánh được ngay”.
Trong hai cách nầy, cũng theo Trần Hưng
Đạo, cách thứ nhất, tức quân Trung Hoa sang đánh nước ta như vũ bão, thì
“có thể dễ chống cự được”. Ngược lại, nếu Trung Hoa tiến quân từ từ vào
nước ta, theo kiểu tằm ăn dâu, chúng ta sẽ khó chống đỡ hơn. Trong
trường hợp đó, theo Trần Hưng Đạo, muốn chiến thắng địch thủ thì chúng
ta phải tạo nội lực quốc gia bằng cách xây dựng tình đoàn kết dân tộc
(như cha với con một nhà), và nuôi dưỡng sức dân (bớt dùng sức dân) để
làm kế lâu dài mà giữ nước. Tuy nhiên, muốn tạo sự đoàn kết toàn dân và
muốn nuôi dưỡng sức dân, thì người dân phải được hưởng tự do, được công
bình trước pháp luật, mới cảm thấy có trách nhiệm bảo vệ đất nước, hăng
hái bảo vệ độc lập dân tộc.
Tập đoàn lãnh đạo cộng sản Trung Hoa
(CSTH) chủ trương bành trướng, còn hơn cả các triều đình quân chủ Trung
Hoa ngày xưa: thôn tính Tây Tạng, xâm lăng Tân Cương, đánh chiếm hải
đảo… Năm 1979, CSTH mở cuộc tấn công đại quy mô, dạy cho CSVN một bài
học, nhưng gặp phản ứng không thuận lợi. Rút kinh nghiệm từ đó, hiện nay
CSTH quay qua thực hiện kế hoạch “tằm ăn dâu”. Dần dần CSTH chiếm đất
phía bắc Việt Nam (ải Nam Quan), chiếm biển phía đông Việt Nam (Vịnh Bắc
Việt), lấn núi phía tây Việt Nam (Trường Sơn), nghĩa là bao vây Việt
Nam ba mặt bắc và đông, tây.
Tình trạng nầy thật nguy hiểm cho tương
lai Việt Nam. Hy vọng những kinh nghiệm lịch sử của người xưa, nhất là
những lời Đức Trần Hưng Đạo đã dặn dò vua Trần Anh Tông năm 1300, có thể
còn hữu ích cho người Việt, nhằm tìm cách phòng bị và chống lại mối đe
dọa thường trực từ Bắc phương.
Chú thích
- 1. Khi Hốt Tất Liệt xâm lăng Trung Hoa, đặt Trung Hoa dưới ách thống trị của Mông Cổ năm 1279 nghĩa là mặc nhiên sáp nhập Mông Cổ vào Trung Hoa. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lật đổ nhà Nguyên (Mông Cổ), lên làm vua, tức Minh Thái Tổ (trị vì 1368-1398), lập ra nhà Minh. Nhà Minh cai trị luôn Mông Cổ. Trường hợp nầy cũng xảy ra với nhà Thanh ở Mãn Châu. Cuối đời Minh, Lý Tự Thành nổi lên ở Thiểm Tây, tự xưng vương năm 1643. Năm sau (1644), Lý Tự Thành kéo quân chiếm Bắc Kinh, vua Minh Hoài Tông (trị vì 1628-1644) tự tử. Tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế thông đồng với người Mãn Thanh (nhà Thanh) ở phía bắc, để dẹp Lý Tự Thành. Lý Tự Thành thua chạy, vua Thanh vào Bắc Kinh làm lễ đăng quang tức Thanh Thế Tổ, niên hiệu Thuận Trị (trị vì 1644-1661). Từ đó, nhà Thanh làm chủ Trung Hoa, Mãn Châu tự động sáp nhập vào Trung Hoa. Khi nhà Thanh sụp đổ sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911, đất Mãn Châu cũng bị xem là thuộc Trung Hoa.
- 2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, (Chữ Nho), Hà Nội: bản dịch của Nxb. Giáo Dục, 1998, tập 1, tt. 558-559.
- 3. Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua [tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, không đề tên tác giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.
Đại nạn Trung Hoa thời cận đại
1.- TRUNG HOA GẶP ĐẠI NẠN
Vào thế kỷ 19, trong nền giao thương giữa
Trung Hoa và các nước Âu Châu, một cuộc tranh chấp gay gắt đã đưa đến
việc người Âu Châu xâu xé Trung Hoa. Nguyên trong những sản phẩm người
Anh đem đến Trung Hoa, có một món hàng vừa dễ chuyên chở, lại bán được
nhiều và được giá cao, đó là thuốc phiện (nha phiến).
Thuốc phiện mà người Trung Hoa gọi là cù
túc, đã được người Ả Rập nhập vào Trung Hoa từ thế kỷ thứ 8, nhưng chỉ
được sử dụng trong y học. Đến thế kỷ 16, những nhà giàu có Trung Hoa bắt
đầu dùng ống dọc tẩu để hút. Công ty Đông Ấn Anh Quốc (The English East
India Company) nhập cảng ồ ạt thuộc phiện vào Trung Hoa để kiếm lợi,
làm tăng nhanh giới nghiện thuốc phiện tại nước nầy. Con số người nghiện
lên đến khoảng mười triệu người vào năm 1830. Năm 1838, Anh nhập vào
Trung Hoa 40,000 thùng thuốc phiện; một thùng khoảng 70 ký-lô, giá có
khi lên đến hai ngàn tiền vàng Mễ Tây Cơ. Việc nầy gây ra hai thiệt hại
quan trọng cho Trung Hoa: Thứ nhất người nghiện càng ngày càng đông,
bệnh tật, đói nghèo và trở nên vô dụng. Thứ hai, người Hoa tốn rất nhiều
tiền nhập thuốc phiện qua tay thương giới Anh.
Vua Đạo Quang (Tao-kuang / Dao Guang),
tức Thanh Tuyên Tông (Qing Xuan Zong, trị vì 1821-1850), quyết định bài
trừ và cấm nhập cảng thuốc phiện năm 1838. Việc nầy đưa đến chiến tranh
giữa Anh Quốc và Trung Hoa năm 1840, thường được gọi là “Nha phiến chiến
tranh”.
Trung Hoa thất bại, phải ký hiệp ước Nam Kinh (Nanking)
năm 1842, gồm 12 khoản, theo đó các khoản quan trọng là: Trung Hoa phải
nhượng Hồng Kông (Hương Cảng) cho Anh; mở năm hải cảng Quảng Châu
(Kwangchow), Hạ Môn (Xiamen hay Hsiamen), Phúc Châu (Fuzhou hay Fuchow),
Ninh Ba (Ningpo hay Ningbo), Thượng Hải (Shanghai) cho người Anh buôn
bán và gia đình cư trú, có lãnh sự trông coi việc buôn bán; bồi thường
cho Anh 21,000,000 tiền vàng Mễ; hàng hóa Anh nhập cảng chịu thuế một
lần, và thương nhân Trung Hoa không đóng thêm thuế khi chuyển hàng tiếp
vào nội địa; công văn trao đổi hai bên có tính cách bình đẳng. Vì việc
mở năm hải cảng nên hiệp ước nầy được các sách Trung Hoa gọi là Ngũ khẩu thông thương điều ước.
Cả hai bên Anh Quốc và Trung Hoa đều vi phạm hiệp ước Nam Kinh.
Cuộc xung đột lớn xảy ra vào năm 1856. Quân Anh tấn công Quảng Châu rồi
rút lui. Người Hoa tức giận đốt hết các thương quán, dinh thự của Anh,
Pháp, Hoa Kỳ. Cuối năm 1857, liên quân Anh Pháp đánh chiếm Quảng Châu,
rồi tiến lên đánh Thiên Tân (Tianjin hay Tientsin), đe dọa Bắc Kinh.
Nhà Thanh vội vã ký hai hiệp ước Thiên Tân riêng
lẽ, một với Anh và một với Pháp năm 1858. Hai hiệp ước nầy có những
điểm chung sau đây: 1) Đại diện Anh, Pháp tự do cư trú ở Bắc Kinh. 2)
Giáo sĩ Anh, Pháp tự do truyền đạo ở nội địa Trung Hoa, công dân Anh,
Pháp có hộ chiếu được tự do du lịch Trung Hoa. 3) Mở thêm nhiều thương
cảng. 4) Công dân Anh, Pháp được quyền lãnh sự tài phán, nghĩa là nếu họ
phạm tội trên đất Trung Hoa, thì sẽ do lãnh sự của họ xử; nếu họ có
tranh tụng với người Hoa thì sẽ do quan lại Trung Hoa cùng lãnh sự xử.
5) Giá biểu quan thuế mới sẽ có sự bàn bạc với đại diện Anh, Pháp.
Năm 1859, khi quân Anh, Pháp đến Bắc Kinh
để trao đổi hiệp ước đã được phê chuẩn, quân Thanh bất ngờ tấn công.
Liên quân Anh Pháp liền trả đũa, bắn phá dữ dội. Vua Hàm Phong (Xian
Feng) tức Thanh Văn Tông (Qing Wen Zong, trị vì 1851-1861) bỏ chạy, giao
trách nhiệm cho hoàng thân Cung Thân Vương. Ông nầy thương thuyết và ký
hiệp ước Bắc Kinh năm 1860, lập lại những điều trong hiệp ước Thiên Tân,
cộng thêm ba điều quan trọng là mở cửa Thiên Tân, bồi thường cho Anh và
Pháp mỗi nước 8 triệu lạng bạc (trong khi theo hiệp ướcThiên Tân,
Trung Hoa chỉ trả cho Anh 4 triệu và cho Pháp 2 triệu mà thôi), và cắt
đất gần Hồng Kông là Cửu Long (Kowloon) và các đảo phụ cận là
Stonecutters Inlands cho Anh.
Chẳng những phải bồi thường cho Anh và
Pháp, Trung Hoa còn phải đền công cho Nga, là nước đã làm trung gian
giúp đưa đến hiệp ước Bắc Kinh năm 1860. Nga được hưởng lợi
nhiều hơn cả Anh và Pháp, vì được Trung Hoa nhượng nhiều đất ở phía tây
bắc Trung Hoa. Từ đó, các cường quốc Âu Mỹ cùng nhau xâu xé Trung Hoa.
Năm 1895, Trung Hoa lại thua Nhật, phải nhượng bộ trong hòa ước Shimonoseki (Hạ Quan) ngày 17-4-1895.
Vào gần cuối thế kỷ 19, bị các nước Tây
phương đe dọa, Trung Hoa khốn đốn không kém Việt Nam ở phương nam, nhưng
triều đình nhà Thanh vẫn cứ tự nhận Trung Hoa là thượng quốc, có ưu
quyền ở Việt Nam.
2.- TRUNG HOA TỰ NHẬN ƯU QUYỀN THƯỢNG QUỐC
Trên đường tìm kiếm thuộc địa sau cuộc
cách mạng kỹ nghệ ở Âu Châu, Pháp viện dẫn lý do triều Nguyễn đàn áp
Ky-Tô giáo, Pháp đem quân tấn công Đà Nẵng ngày 1-9-1858, mở đầu cuộc
xâm lăng Việt Nam. Pháp chiếm các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa,
Vĩnh Long, buộc triều đình Huế phải ký hòa ước Nhâm Tuất ngày 5-6-1862, nhượng ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường (ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ) cho Pháp.
Không dừng lại ở đó, Pháp tiếp tục chiếm
ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ là Vĩnh Long, An Gia, Hà Tiên năm 1867, và tiến
quân ra đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873, chiếm Hà Nội, Ninh Bình, Hải
Dương, Nam Định. Pháp ép triều đình Huế ký hòa ước ngày Giáp Tuất 15-3-1874, nhường đứt luôn ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ cho Pháp, để Pháp trả lại các tỉnh Bắc Kỳ. Hòa ước Giáp Tuất ngày 15-3-1874 gồm 22 điều khoản, trong đó điều khoản số 2 nói rằng “Tổng
thống Pháp nhận Đại Nam là một quốc gia độc lập, không phải thần phục
nước nào, hứa giúp Hoàng đế Đại Nam nếu cần, bảo vệ an ninh trong và
ngoài nước…”, và điều khoản số 3 tiếp theo “Để đáp lại sự bảo hộ ấy, Hoàng đế Đại Nam từ nay chịu theo chính sách ngoại giao hiện thời của nước Pháp…”
Nói cách khác, từ nay Việt Nam phải theo chính sách ngoại giao của
Pháp, và không được thần phục hay giao thiệp với nước khác mà không có
sự đồng ý của Pháp.
Khi hòa ước năm 1874 đã được hai bên Việt
Pháp phê chuẩn và trao đổi, đại diện Pháp tại Bắc Kinh là De
Rochehouart chuyển bản hòa ước nầy cho chính phủ Trung Hoa ngày
24-5-1875. Triều đình nhà Thanh trả lời rằng: “Chí Giao Chỉ tức Việt Nam bổn hệ Trung Hoa thuộc quốc.” (nghĩa là: “Từ Giao Chỉ đến Việt Nam vốn là thuộc quốc của Trung Hoa.”). Câu nầy được tòa lãnh sự Pháp dịch qua Pháp văn theo nghĩa là: “An Nam cũng là xứ được gọi là Việt nam. Xứ nầy từng là nước thần phục Trung Hoa.”(1) Do cách hành văn khác nhau, Trung Hoa nghĩ rằng họ đã phản đối Pháp, nhưng Pháp lại cho rằng Trung Hoa chẳng phản đối gì.
Trong cuộc tiếp xúc với thủ tướng Pháp là
Charles de Freycinet ngày 25-1-1880, đại sứ Trung Hoa tại Pháp là Tăng
Kỷ Trạch (Zeng Ji Ze) khẳng định với Pháp rằng Việt Nam là chư hầu của
Trung Hoa.(1) Vua Trung Hoa lúc nầy là Quang Tự
(Kuang-hsu) hay Thanh Đức Tông (Qing Te-tsung, trị 1875-1908) mới 10
tuổi và bà thái hậu Từ Hy (Tzu-Hsi / Ci Xi, 1835-1908) giữ quyền nhiếp
chính.
Tăng Kỷ Trạch còn viết thư ngày
10-11-1880 khi ông đến St Pétersbourg (Nga), yêu cầu ngoại trưởng Pháp
cho Trung Hoa biết lập trường của Paris về những biến chuyển ở Bắc Kỳ.
Trong thư trả lời ngày 27-12-1880, ngoại trưởng Barthélemy St. Hilaire
đáp lại rằng theo điều 2 hòa ước năm 1874, Pháp có bổn phận và trách
nhiệm với Việt Nam. Thư nầy được gởi đến cho Tăng Kỷ Trạch và chính phủ
Trung Hoa. Tăng Kỷ Trạch cho đại diện Pháp ở St. Pétersbourg biết rằng
Pháp có thể chiếm Trung Kỳ, nhưng nếu chiếm Bắc Kỳ thì sẽ gây quan ngại
cho Trung Hoa, vì vùng nầy tiếp giáp với biên giới Trung Hoa. Ngoại
trưởng Pháp liền ra lệnh cho viên đại diện Pháp báo cho Tăng Kỷ Trạch
biết rằng từ năm 1874, ngoài nước Pháp Việt Nam đã hoàn toàn cắt đứt
liên hệ với các nước khác.(2)
Về phía Việt Nam, dầu đã ký Hòa ước Giáp Tuất (15-3-1874),
chịu nhận nền ngoại giao Pháp, vua Tự Đức vẫn gởi phái bộ ngoại giao
sang Trung Hoa năm 1876, để chúc mừng vua Thanh Đức Tông lên thay vua
Thanh Mục Tông (Mu-tsung) (trị vì 1862-1874), tức vua Đồng Trị
(T’ung-chih) từ trần năm 1874. Tháng 7-1880, vua Tự Đức còn cử sứ thần
sang Trung Hoa thêm lần nữa. Chuyến đi nầy, chẳng những có tính cách
ngoại giao thông lệ bốn năm một lần cống sứ, mà còn để nhờ Trung Hoa
giúp đỡ.
Năm sau (1881), Trung Hoa gởi Đường Đình
Canh sang kinh đô Huế bàn chuyện buôn bán, lập chiêu thương cuộc. Những
sự kiện nầy không thể qua mặt người Pháp. Khâm sứ Pháp tại Huế là
Rheinart đã báo cáo đầy đủ các chuyến đi sứ của Việt Nam sang Trung Hoa
cho thượng cấp ngày 2-8-1882.(Yoshiharu Tsuboii, sđd. tt. 298-299.)
Về phía nhà Thanh, tại Bắc Kinh, đại diện
Trung Hoa phản đối với đại sứ Pháp, cho rằng Việt Nam là thuộc quốc của
Trung Hoa và yêu cầu Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ để duy trì tình hữu nghị
Hoa Pháp. Tại Paris, ngày 6-5-1882, đại sứ Tăng Kỷ Trạch cũng lên tiếng
phản đối Pháp và yêu cầu Pháp rút quân.
Thủ tướng Freycinet (Pháp) cho rằng lời
lẽ của họ Tăng bất nhã, nên yêu cầu đại sứ Pháp tại Bắc Kinh cho chính
phủ Trung Hoa biết rằng sẽ không nói chuyện với Trung Hoa và yêu cầu
Trung Hoa đừng xen vào chính sách Pháp ở Bắc Kỳ.(3)
Về quân sự, ngày 30-6-1882, tổng đốc Vân
Nam (Trung Hoa) loan báo rằng quân đội Trung Hoa sẽ tiến vào lãnh thổ
Bắc Kỳ để truy đuổi các thổ phỉ Cờ đen. Trong tháng sau, tướng Tạ Kính
Bưu đem ba doanh quân Vân Nam đến đóng tại Quản Ty (Hưng Hóa). [Một
doanh khoảng 1,000 quân.] Vào tháng 9, nhà Thanh cử tướng Hoàng Quế Lan
đem mười hai doanh quân đóng ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên,
Bắc Ninh, và tướng Triệu Ốc đem năm doanh quân đóng ở Tuyên Quang. Tài
liệu Pháp cho rằng số quân Trung Hoa tại Bắc Kỳ lúc đó lên đến 20,000
người. Dầu vậy, lực lượng Trung Hoa dần dần bị Pháp đẩy lui.
Trong thực tế, Trung Hoa điều quân qua Việt Nam nhắm mưu lợi,
chứ chẳng phải thực tâm giúp đỡ Việt Nam chống Pháp, nên khi thấy không
thể chiến thắng được Pháp, Trung Hoa quay qua thương thuyết với Pháp để
chia phần ở Việt Nam.
3.- TRUNG HOA ÂM MƯU CHIA HAI BẮC KỲ
Ngày 27-10-1882, Paris thông báo cho đại
sứ Pháp ở Trung Hoa là Bourée biết, trong phiên họp ngày 21-10, chính
phủ Pháp quyết định bảo hộ Việt Nam, để Bourée nói chuyện với Bắc Kinh.
Trước sự cương quyết của Pháp, vào đầu tháng 11-1882, Lý Hồng Chương (Li
Hongzhang hay Li-Hung-Tchang), một viên chức cao cấp trong Tổng lý nha
môn, cơ quan phụ trách ngoại giao của triều đình Trung Hoa, đề nghị với
Bourée rằng Trung Hoa và Pháp chia nhau bảo hộ Bắc Kỳ. Bourée báo cáo sáng kiến của Lý Hồng Chương về Pháp.
Lúc đó, các chính phủ Paris kế tiếp nhau,
đều muốn chiếm Bắc Kỳ, nhưng vừa ngại tốn kém vì Quốc hội Pháp không
chuẩn chi, vừa ngại đụng chạm với Trung Hoa, nên đường lối của chính phủ
Pháp không rõ ràng và hay thay đổi. Ngày 5-12-1882, Bourée cho Paris
biết là Bắc Kinh đã ra lệnh quân Thanh rút khỏi Bắc Kỳ về Vân Nam và
Quảng Tây. Cũng trong ngày nầy, bộ Hải quân và Thuộc địa ra Pháp lệnh
cho soái phủ Sài Gòn tránh đụng chạm với quân Trung Hoa. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tr. 291)
Ngày 20-12-1882, tại Thiên Tân (Tianjin hay Tientsin), Bourée và Lý Hồng Chương ký tạm ướcThiên Tân về
Bắc Kỳ, theo đó Trung Hoa chiếm phía bắc sông Hồng (vùng núi non và hầm
mỏ), và Pháp chiếm phía nam sông Hồng (vùng châu thổ, sản xuất nông
phẩm). Lào Cai được xem là một thương cảng Trung Hoa, nhưng người Pháp
được quyền tự do buôn bán với Vân Nam.(4) tạm ước Thiên Tân thật
ra rất mơ hồ, chỉ lấy sông Hồng chia hai địa phận, nhưng chưa vạch ra
cụ thể ranh giới giữa hai bên Pháp và Trung Hoa ở Bắc Kỳ.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu, Tạm ước Thiên Tân bị
Pháp bãi bỏ. Nguyên tại Paris, chính phủ Charles Duclerc sụp đổ ngày
22-1-1883. Armand Fallières tạm thay một thời gian, thì Jules Ferry trở
lại làm thủ tướng lần thứ hai ngày 21-2-1883. Lúc đó, Pháp dứt khoát về
vấn đề Ai Cập (Egypt) vì nước nầy đã do nước Anh đô hộ từ 1882. Jules
Ferry dồn nỗ lực về phía Việt Nam.
Việc làm đầu tiên về Việt Nam của chính phủ Jules Ferry là bãi bỏ tạm ước Thiên Tân mà
Bourée đã ký với Lý Hồng Chương, vì theo chính phủ nầy, tạm ước đã
giành cho Trung Hoa quá nhiều quyền lợi ở Bắc Kỳ. Quyết định bãi bỏ được
Pháp báo cho Trung Hoa biết ngày 5-3-1883. Hai tháng sau, đại sứ Bourée
bị triệu hồi. Chính phủ Pháp đưa Tricou, nguyên đại sứ Pháp tại Nhật,
sang Bắc Kinh làm đại sứ từ ngày 1-6-1883.
Ngày 18-8-1883, đại sứ Trung Hoa là Tăng
Kỷ Trạch giao cho chính phủ Pháp lập trường sáu điểm của Trung Hoa về
Bắc Kỳ, theo đó: (1) Ngoại trừ Nam Kỳ, Pháp không được chiếm bất cứ phần
lãnh thổ nào của An Nam; (2) An Nam là chư hầu của Trung Hoa; (3) Pháp
phải triệt binh khỏi những nơi đã chiếm của An Nam, mở một số hải cảng
để giao thương, và các cường quốc có quyền đặt tòa lãnh sự tại các cảng
nầy; (4) Sông Hồng phải được mở rộng để giao thương; (5) Trung Hoa sẽ
bảo đảm việc tự do giao thương trên sông Hồng; (6) Những hòa ước giữa
Pháp và Việt Nam phải được Trung Hoa chấp thuận.(Vũ Ngự Chiêu, sđd.tt. 328-329.)
Trong khi đó, Pháp đưa quân từ Bắc Kỳ,
tiến đánh cửa Thuận An (Huế) ngày 20-8-1883. Thất bại, triều đình Huế
đành xin điều đình và ký hòa ước Quý Mùi ngày 25-8-1883, gồm 27 điều khoản, trong đó điều 1 viết rằng “Nước
Nam nhận và chịu sự bảo hộ của nước Pháp với những hậu quả của mối
tương giao nầy theo luật pháp ngoại giao Âu Châu, nghĩa là nước Pháp chủ
trương mọi sự giao thiệp của nước Nam với các nước ngoài, kể cả nước
Tàu, và nước Nam có giao thiệp ngoại giao với nước nào thì chỉ do một
mình nước Pháp môi giới mà thôi.”
Bảo hộ xong Việt Nam, hai ngày sau, ngoại
trưởng Pháp từ chối yêu cầu sáu điểm của Trung Hoa trong thư trả lời
ngày 27-8, và cho Trung Hoa biết rằng Pháp sẵn sàng giải quyết vấn đề an
ninh biên giới và quyền lợi người Hoa buôn bán trên sông Hồng.
Ngoại trưởng Pháp còn gởi công văn ngày 15-9-1883 cho chính phủ Trung Hoa, một lần nữa xác nhận rằng Pháp không chấp nhận tạm ước Thiên Tân ngày
20-12-1882, giữa đại sứ Bourée và Lý Hồng Chương về Bắc Kỳ. Công văn
ngày 15-9 còn đưa ra đề nghị mới của Pháp gồm hai điểm: (1) Lập một khu
phi quân sự giữa hai vĩ tuyến 21 và 22, nếu một bên muốn động binh để
đánh dẹp thổ phỉ thì phải có sự đồng ý của bên kia. (2) Thị trấn Man Hao
trên sông Hồng trong lãnh thổ Trung Hoa sẽ được mở ra cho việc giao
thương. Chính sách của chính phủ Jules Ferry được Quốc hội Pháp hậu
thuẫn mạnh mẽ trong cuộc đầu phiếu tại Quốc hội ngày 31-10-1883. (Vũ Ngự
Chiêu, sđd. tt. 330-332.)
Hai chính phủ Pháp Hoa tranh cãi không dứt về vấn đề Bắc Kỳ. Pháp muốn độc quyền tại miền Bắc Việt Nam, trong khiTrung Hoa muốn chia một phần Bắc Kỳ cho Trung Hoa,
và bảo đảm an toàn biên giới Việt Hoa. Trung Hoa tin tưởng rằng Pháp
khó có thể chiến thắng lực lượng Trung Hoa ở Bắc Kỳ. Ngoài ra, Trung Hoa
còn hy vọng hai nước Anh và Đức sẽ can thiệp, nhưng lúc đó, Anh đang
bận rộn ở Ai Cập và Đức muốn Pháp bành trướng ở Bắc Kỳ hơn là tập trung
lực lượng để chống Đức ở biên giới giữa hai bên.
Cuối cùng, tại Bắc Kỳ, Pháp đã đánh đuổi
quân Trung Hoa và quân Cờ đen chạy lên miền biên giới, làm chủ tình hình
Bắc Kỳ. Lúc đó, Trung Hoa thấy không thể kiếm lợi được ở Việt Nam mà
còn lo ngại Pháp sẽ tiến chiếm Đài Loan hay Hải Nam để đòi chiến phí,
nên Trung Hoa bắt đầu thay đổi chính sách.
4.- HIỆP ƯỚC THIÊN TÂN LẦN THỨ NHẤT (11-5-1884)
Đầu tiên, Lý Hồng Chương, nhờ một thân
hữu tên là Gustav Detring, người Đức, công chức cao cấp trong ngành
thương chánh Trung Hoa và đã phục vụ 20 năm ở Quảng Châu, vận động với
chính phủ Pháp. Vào tháng 4-1884, Gustav Detring đem việc nầy thảo luận
với một người bạn là trung tá Ernest François Fournier, hạm trưởng tuần
dương hạmVolta, đang đóng ở Quảng Đông. Fournier trình bày lại ý
định của Lý Hồng Chương với cấp chỉ huy là phó đô đốc Sébastien Lespès,
tư lệnh hạm đội Pháp tại Trung Hoa và Nhật Bản. Một mặt, Lespès thuận
cho Fournier nói chuyện với Lý Hồng Chương, một mặt Lespès trình về
Paris.
Ernest Fournier nhờ Gustav Detring chuyển
cho Lý Hồng Chương một văn thư cho biết các điều kiện về phía Pháp để
đi đến một cuộc dàn xếp với Trung Hoa: giải nhiệm đại sứ Tăng Kỷ Trạch,
từ bỏ ưu quyền đối với Việt Nam, rút lui quân đội Trung Hoa khỏi Bắc Kỳ,
và bồi hoàn chiến phí.(5)
Để tỏ thiện chí, triều đình Trung Hoa
quyết định chấm dứt nhiệm vụ đại sứ ở Pháp của Tăng Kỷ Trạch, mà vẫn giữ
ông ta làm đại sứ ở Anh; và Trung Hoa cử Hứa Cảnh Trừng làm đại sứ tại
Pháp, Đức, Ý, Hòa Lan và Áo.
Cuộc nói chuyện tiếp tục, Fournier đến
Thiên Tân, gặp Lý Hồng Chương và nhanh chóng ký hiệp ước ngày 11-5-1884,
gồm năm khoản, thường được gọi là hiệp ước Fournier hay hiệp ước Thiên Tân,
đại để như sau: 1) Pháp hứa tôn trọng biên giới Việt Hoa. 2) Trung Hoa
cam kết rút quân khỏi Bắc Kỳ và tôn trọng những hòa ước ký kết giữa Pháp
và Việt Nam. 3) Pháp không đòi bồi thường chiến phí. 4) Hủy bỏ những
hiệp ước trước đây giữa Trung Hoa và Việt Nam, và nuớc Pháp cam kết
không làm tổn hại thể diện Trung Hoa. 5) Hai bên thỏa thuận sẽ gặp nhau
lại trong vòng 90 ngày để ký kết hiệp ước chính thức.
Ernest Fournier tiếp tục thương lượng với
Lý Hồng Chương về thời biểu Trung Hoa rút quân. Ngày 17-5, Fournier
trao cho Lý Hồng Chương một giác thư (mémorandum) theo đó Pháp sẽ tiếp
thu Lạng Sơn, Cao Bằng ngày 5-6-1884, và Lào Cai ngày 1-7-1884.(Alfred
Schreiner, sđd.tr. 362.)
Nhận được tin nầy, trung tướng Millot, tư
lệnh lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ nghĩ rằng Pháp có thể chiếm đóng vùng Lạng
Sơn, Cao Bằng khoảng từ 15 đến 20-6, nên ông cử quân đi tiếp thu Lạng
Sơn. Trên đường đi Lạng Sơn, ngang qua thị trấn Bắc Lệ ngày 22-6, đoàn
quân Pháp bị quân Trung Hoa tấn công dữ dội và gây thiệt hại nặng nề.
Chính phủ Paris được tin Bắc Lệ, liền ra
lệnh cho đại diện Pháp ở Bắc Kinh gởi cho triều đình Mãn Thanh một tối
hậu thư ngày 12-7, yêu cầu Trung Hoa phải ra lệnh quân đội mình lập tức
rời Bắc Kỳ, hạn chót là 31-7, và triều đình Trung Hoa phải bồi thường
250 triệu quan chiến phí, nếu không Pháp sẽ đánh Trung Hoa.
Phó đề đốc Prosper Courbet, đang chỉ huy
hạm đội Pháp ở Bắc Kỳ, được cử kiêm luôn chỉ huy hạm đội Pháp ở Trung
Hoa, đem quân đến cửa sông Mân ở Phúc Châu (Fou-Tchéou), thủ phủ tỉnh
Phúc Kiến (Fukien) ngày 16-7, trong khi một hạm đội Pháp khác đến đảo Cơ
Long (Kélung) ở eo biển Đài Loan. Ngày 5-8-1884, Pháp bắt đầu tấn công,
gây thiệt hại nặng cho Trung Hoa.
Trên biển, hạm đội Pháp truy lùng và tấn
công các tàu của Trung Hoa, phong tỏa cửa sông Dương Tử (Yang-tse), vùng
Thượng Hải, và cho đến cuối tháng 3-1885, Pháp làm chủ hoàn toàn quần
đảo Bành Hồ ở eo biển Đài Loan. (Quân sử III, Sài Gòn: 1971, tt. 227-228.)
- HIỆP ƯỚC THIÊN TÂNLẦN THỨ HAI (9-6-1885)
Trong khi Pháp khó thắng Trung Hoa, thì
rõ ràng Trung Hoa thất thế cả ở Trung Hoa lẫn ở Bắc Kỳ. Cả hai bên Pháp
Hoa đều muốn tìm kiếm một giải pháp hòa bình vì hoàn cảnh riêng của mỗi
bên. Sau những cuộc thảo luận kéo dài, hai bên dự tính đi đến việc ký
kết hòa ước vào cuối tháng 3-1885, thì chính phủ Jules Ferry sụp đổ.
Chính phủ Brisson lên thay thế. Bộ trưởng ngoại giao vẫn là Charles
Freycinet.
Cuộc đàm phán về một hòa ước mới bắt đầu tại thành phố Thiên Tân từ ngày 13-5-1885 giữa hai bên Pháp-Hoa; kết thúc bằng Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và thương mại ký
ngày 9-6-1885 giữa Jules Patenôtre (đại diện Pháp) và Si Tchen, Lý Hồng
Chương (Li Hongzhang / Li-Hung-Tchang) và Teng Tcheng Sieou (đại diện
Trung Hoa).
Hòa ước Thiên Tân lần thứ hai
nầy gồm 10 điều khoản, có thể được tóm lược như sau: Trung Hoa đồng ý
rút quân về nước (điều 1). Trung Hoa nhìn nhận việc Pháp bảo hộ Việt Nam
(điều 2). Hai bên sẽ tiếp tục hòa đàm về vấn đề biên giới Việt Hoa
(điều 3). Hai bên sẽ thảo luận về một hiệp ước thương mại (điều 5, 6,
8). Pháp đồng ý rút quân khỏi Đài Loan và Bành Hồ (Pescadores) (điều 9).
Như thế là chiến tranh Pháp Hoa về vấn đề
Bắc Kỳ kết thúc. Bắc Kinh gởi một phái đoàn đến Hà Nội để giúp chấm dứt
tranh chấp Pháp Hoa, và đưa quân đội nhà Thanh trở về Trung Hoa.
KẾT LUẬN
Dầu Việt Nam, quốc hiệu của nước ta từ
khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802, là một nước độc lập, Trung Hoa vẫn
mặc nhiên tự xem Trung Hoa là thượng quốc và có ưu quyền đối với Việt
Nam. Khi người Pháp xuất hiện, Trung Hoa tự xem có quyền thương lượng
với Pháp về Việt Nam, muốn chia phần với Pháp và quyết định số phận Việt
Nam. Cho đến khi bị Pháp đánh bại, Trung Hoa đành nhượng bộ, nhưng
những nhà cầm quyền Trung Hoa không bao giờ từ bỏ mục tiêu truyền kiếp
là đánh chiếm và đô hộ Việt Nam.
Chú thích:
- Yoshiharu Tsuboii, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Nguyễn Đình Đầu dịch, TpHCM: Ban Khoa học Xã hội, 1990, tr. 142. 2. Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn 1883-1945, tập 1, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1999, tt. 273-274. 3. Alfred Schreiner, Abrégé de l’histoire d’Annam, Sài Gòn: 1906, tr. 353. 4. Khối Quân sử, Quân dân Việt Nam chống Tây xâm (1847-1945), Quân sử III, Sài Gòn: Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, 1971, tr. 164. 5. Alfred Schreiner, sđd.. tt. 371-372.
No comments:
Post a Comment