Vấn
đề ngôn ngữ là vấn đề của muôn thuở, không riêng gì của người Việt.
Trong bài viết này, tôi muốn bàn về một thực trạng của tiếng Việt mà đã
đến lúc, chúng ta không thể không suy nghĩ về nó một cách nghiêm túc.
Đó là nguy cơ diệt vong của một thứ tiếng Việt mà người miền Nam Việt Nam dùng trước năm 1975 hay còn được gọi là tiếng Việt Sài Gòn cũ.
Thứ tiếng Việt đó đang mất dần trong đời sống hàng ngày của người dân trong nước và chẳng chóng thì chầy, nó sẽ biến thành cổ ngữ, hoặc chỉ còn tìm thấy trong tự điển, không còn ai biết và nhắc tới nữa. Điều tôi đang lo lắng là nó đang chết dần ngay chính trong nước chứ không phải ở ngoài nước. Người Việt hải ngoại mang nó theo hành trình di tản của mình và sử dụng nó như một thứ ngôn ngữ lưu vong. Nếu người Việt hải ngoại không dùng, hay nền văn học hải ngoại không còn tồn tại, nó cũng âm thầm chết theo.
Đó là nguy cơ diệt vong của một thứ tiếng Việt mà người miền Nam Việt Nam dùng trước năm 1975 hay còn được gọi là tiếng Việt Sài Gòn cũ.
Thứ tiếng Việt đó đang mất dần trong đời sống hàng ngày của người dân trong nước và chẳng chóng thì chầy, nó sẽ biến thành cổ ngữ, hoặc chỉ còn tìm thấy trong tự điển, không còn ai biết và nhắc tới nữa. Điều tôi đang lo lắng là nó đang chết dần ngay chính trong nước chứ không phải ở ngoài nước. Người Việt hải ngoại mang nó theo hành trình di tản của mình và sử dụng nó như một thứ ngôn ngữ lưu vong. Nếu người Việt hải ngoại không dùng, hay nền văn học hải ngoại không còn tồn tại, nó cũng âm thầm chết theo.
Nhìn
tiếng Việt Sài Gòn cũ từ từ biến mất, lòng tôi bỗng gợn một nỗi cảm
hoài. Điều tôi thấy, có lẽ nhiều người cũng thấy, thấy để mà thấy, không
làm gì được. Sự ra đi của nó âm thầm giống như những dấu tích của nền
văn hoá đệ nhất, đệ nhị cộng hoà VN vậy. Người ta không thể tìm ra nghĩa
trang Mạc Đĩnh Chi, Cổ Thành Quảng Trị, nghĩa trang Quận Đội, trường võ
bị Thủ Đức, v.v… Tất cả đã thay đổi, bị phá huỷ hoặc biến đi như một
sắp xếp của định mệnh hay một định luật của tạo hoá.
Nhắc
đến tiếng Việt Sài Gòn cũ là nhắc tới miền Nam Việt Nam trước 1975. Vì
cuộc đấu tranh ý thức hệ mà Nam, Bắc Việt Nam trước đó bị phân đôi. Sau
ngày Việt Nam thống nhất năm 75, miền Nam thực sự bước vào sự thay đổi
toàn diện. Thể chế chính trị thay đổi, kéo theo xã hội, đời sống, văn
hoá và cùng với đó, ngôn ngữ cũng chịu chung một số phận. Miền Bắc thay
đổi không kém gì miền Nam. Tiếng Việt miền Bắc đã chịu sự thâm nhập của
một số ít ngữ vựng miền Nam. Ngược lại, miền Nam chịu ảnh hưởng trực
tiếp sự chi phối của ngôn ngữ miền Bắc trong mọi lãnh vực.
Người dân miền Nam tập làm quen và dùng nhiều từ ngữ mà trước đây họ không bao giờ biết tới.
Những: đề xuất, bồi dưỡng, kiểm thảo, sự cố, hộ khẩu, căn hộ, ùn tắc, ô to con, xe con, to đùng, mặt bằng, phản ánh, bức xúc, tiêu dùng, tận dụng tốt, đánh cược, chỉ đạo, quyết sách, đạo cụ, quy phạm, quy hoạch, bảo quản, kênh phát sóng, cao tốc, doanh số, đối tác, thời bao cấp, chế độ bao cấp, chế độ xem, nâng cấp, lực công, nền công nghiệp âm nhạc, chùm ảnh, chùm thơ, nhà cao tầng, đáp án, phồn thực, sinh thực khí, từ vựng, hội chứng, phân phối, mục từ, kết từ, đại từ, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân,v.v…dần dà đã trở thành những từ ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày của người dân miền Nam.
Người dân miền Nam tập làm quen và dùng nhiều từ ngữ mà trước đây họ không bao giờ biết tới.
Những: đề xuất, bồi dưỡng, kiểm thảo, sự cố, hộ khẩu, căn hộ, ùn tắc, ô to con, xe con, to đùng, mặt bằng, phản ánh, bức xúc, tiêu dùng, tận dụng tốt, đánh cược, chỉ đạo, quyết sách, đạo cụ, quy phạm, quy hoạch, bảo quản, kênh phát sóng, cao tốc, doanh số, đối tác, thời bao cấp, chế độ bao cấp, chế độ xem, nâng cấp, lực công, nền công nghiệp âm nhạc, chùm ảnh, chùm thơ, nhà cao tầng, đáp án, phồn thực, sinh thực khí, từ vựng, hội chứng, phân phối, mục từ, kết từ, đại từ, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân,v.v…dần dà đã trở thành những từ ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày của người dân miền Nam.
Có
những từ ngữ miền Nam và miền Bắc trước 75 đồng nghĩa và cách dùng
giống nhau. Có những từ cùng nghĩa nhưng cách dùng khác nhau. Tỷ như chữ
“quản lý” là trông nom, coi sóc. Miền Nam chỉ dùng từ này trong lãnh
vực thương mại trong khi miền Bắc dùng rộng hơn trong cả lãnh vực cá
nhân như một người con trai cầu hôn một người con gái bằng câu: “Anh xin
quản lý đời em”. Hoặc từ “chế độ” cũng vậy, miền Nam chỉ dùng trong môi
trường chính trị như “chế độ dân chủ”. Miền Bắc dùng bao quát hơn trong
nhiều lãnh vực như “chế độ xem”, “chế độ bao cấp”.
Có những từ miền Bắc dùng đảo ngược lại như đơn giản – giản đơn; bảo đảm – đảm bảo; dãi dầu – dầu dãi; vùi dập – dập vùi. v.v…
Có những từ miền Bắc dùng đảo ngược lại như đơn giản – giản đơn; bảo đảm – đảm bảo; dãi dầu – dầu dãi; vùi dập – dập vùi. v.v…
Song
song với việc thống nhất đất nước, chính quyền Việt Nam đã thống nhất
hoá tiếng Việt và gọi đó là “tiếng Việt toàn dân”. Cuối năm 1979, đầu
năm 1980, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện Khoa học
Giáo dục tổ chức một số cuộc hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt. Bộ
Giáo dục cũng thông qua một số quy định về chính tả trong sách giáo
khoa cải cách giáo dục. Ngày 01/7/1983,
Quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả và Hội đồng chuẩn hoá thuật
ngữ đã được ban hành và áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản
của ngành giáo dục.
Khi
tiếng Việt được thống nhất và chuẩn hoá, toàn quốc sử dụng chung một
thứ ngôn ngữ theo một tiêu chuẩn, mẫu mực nhất định. Tiếng Việt Sài Gòn
cũ, gồm những từ ngữ mà tiếng Việt miền Bắc đã có từ ngữ thay thế, sẽ bị
quên đi hoặc bị đào thải. Những từ ngữ thông dụng cho cuộc chiến trước
đó sẽ biến mất trước tiên. Những: trực thăng, cộng quân, tác chiến, địa
phương quân, thiết vận xa, xe nhà binh, lạnh cẳng, giới chức(hữu) trách,
dứt điểm, phi tuần, chào bãi, tuyến phòng thủ, trái bộc pha, viễn thám,
binh chủng, phi hành, gia binh, ấp chiến lược, nhân dân tự vệ, chiêu
hồi, chiêu mộ, v.v… hầu như ít, thậm chí không được dùng trong hiện tại.
Những từ ngữ thông dụng khác như ghi danh, đi xem đã bị thay thế bằng
đăng ký, tham quan.
Nhiều từ ngữ dần dần đã bước vào quên lãng như:sổ gia đình, tờ khai gia đình, phản ảnh, đường rầy, cao ốc, bằng khoán nhà, tĩnh từ, đại danh từ, túc từ, giới từ, khảo thí, khán hộ, khao thưởng, hữu sự, khế ước, trước bạ, tư thục, biến cố, du ngoạn, ấn loát, làm phong phú, liên hợp, gá nghĩa, giáo học, giáo quy, hàm hồ, tráng lệ, thám thính, tư thất, chẩn bệnh, chi dụng, giới nghiêm, thiết quân luật, v.v…
Nhiều từ ngữ dần dần đã bước vào quên lãng như:sổ gia đình, tờ khai gia đình, phản ảnh, đường rầy, cao ốc, bằng khoán nhà, tĩnh từ, đại danh từ, túc từ, giới từ, khảo thí, khán hộ, khao thưởng, hữu sự, khế ước, trước bạ, tư thục, biến cố, du ngoạn, ấn loát, làm phong phú, liên hợp, gá nghĩa, giáo học, giáo quy, hàm hồ, tráng lệ, thám thính, tư thất, chẩn bệnh, chi dụng, giới nghiêm, thiết quân luật, v.v…
Ở
hải ngoại, khi bắt đầu cầm bút, trong tâm thức một người lưu vong,
viết, đối với tôi, là một động tác mở để vỡ ra một con đường: Đường hoài
hương. Nhiều người viết hải ngoại cũng tìm đến con đường về cố hương
nhanh nhất này như tôi. Hơn nữa, để đối đầu với cơn chấn động văn hóa
thường tạo nhiều áp lực, tôi xem viết như một phương pháp giải toả và
trám đầy nỗi hụt hẫng, rỗng không của một người vừa ly dị với quê hương
đất tổ sau một hôn phối dài. Tôi không bao giờ để ý đến việc mình viết
cho ai, loại độc giả nào, trong hay ngoài nước, và họ có hiểu thứ ngôn
ngữ mình đang dùng hay không vì lúc đó, chỉ có một vài tờ báo điện tử
liên mạng mới bắt đầu xuất hiện ở hải ngoại.
Sau này, nhờ kỹ thuật điện toán ngày một phát triển, cầu giao lưu giữa trong và ngoài nước được nối lại, độc giả trong và ngoài nước đã có cơ hội tiếp xúc, thảo luận, đọc và viết cho nhau gần như trong gang tấc. Đó là lúc tôi được tiếp xúc với dòng văn học trong nước và làm quen với nhiều từ ngữ mới lạ chưa từng được nghe và dùng. Ngược lại, trong nước cũng vậy, số người lên mạng để đọc những gì được viết bởi người cầm bút ngoài nước cũng không ít.
Sau này, nhờ kỹ thuật điện toán ngày một phát triển, cầu giao lưu giữa trong và ngoài nước được nối lại, độc giả trong và ngoài nước đã có cơ hội tiếp xúc, thảo luận, đọc và viết cho nhau gần như trong gang tấc. Đó là lúc tôi được tiếp xúc với dòng văn học trong nước và làm quen với nhiều từ ngữ mới lạ chưa từng được nghe và dùng. Ngược lại, trong nước cũng vậy, số người lên mạng để đọc những gì được viết bởi người cầm bút ngoài nước cũng không ít.
Thế
hệ chúng tôi được người ta âu yếm gọi là thế hệ một rưỡi, thế hệ ba rọi
hay nửa nạc nửa mỡ, cái gì cũng một nửa. Nửa trong nửa ngoài, nửa tây
nửa ta, nửa nam nửa bắc, nửa nọ nửa kia, cái gì cũng một nửa.
Do
đó, nhiều lúc tôi phân vân không biết mình nên dùng nửa nào để viết cho
thích hợp nữa. Nửa của những từ ngữ Sài Gòn cũ hay nửa của tiếng Việt
thông dụng trong nước?
Mình có nên thay đổi lối viết không? Tôi nghĩ nhiều người viết hải ngoại cũng gặp khó khăn như tôi và cuối cùng, mỗi người có một lựa chọn riêng. Không chỉ trong lãnh vực văn chương, thi phú mà ở các lãnh vực phổ thông khác như giáo dục và truyền thông cũng va phải vấn đề gay go này. Việc sử dụng nhiều từ ngữ thông dụng của quốc nội ở hải ngoại đã gặp nhiều chống đối và tạo ra những cuộc tranh luận liên miên, dai dẳng.
Mình có nên thay đổi lối viết không? Tôi nghĩ nhiều người viết hải ngoại cũng gặp khó khăn như tôi và cuối cùng, mỗi người có một lựa chọn riêng. Không chỉ trong lãnh vực văn chương, thi phú mà ở các lãnh vực phổ thông khác như giáo dục và truyền thông cũng va phải vấn đề gay go này. Việc sử dụng nhiều từ ngữ thông dụng của quốc nội ở hải ngoại đã gặp nhiều chống đối và tạo ra những cuộc tranh luận liên miên, dai dẳng.
Các
cơ quan truyền thông như báo chí, truyền thanh, truyền hình thường
xuyên bị chỉ trích và phản đối khi họ sử dụng những từ trong nước bị coi
là “chữ của Việt Cộng” và được yêu cầu không nên tiếp tục dùng. Nhất là
ở Nam Cali, báo chí và giới truyền thông rất dễ bị chụp mũ “cộng sản”
nếu không khéo léo trong việc đăng tải và sử dụng từ ngữ. Chiếc mũ vô
hình này, một khi bị chụp, thì nạn nhân xem như bị cộng đồng tẩy chay mà
đi vào tuyệt lộ, hết làm ăn vì địa bàn hoạt động chính là cộng đồng địa
phương đó.
Trong
cuốn DVD chủ đề 30 năm viễn xứ của Thúy Nga Paris, chúng ta được xem
nhiều hình ảnh cộng đồng người Việt hải ngoại cố gìn giữ bản sắc văn hoá
Việt Nam bằng cách mở các lớp dạy Việt ngữ cho các con em. Khắp nơi
trên thế giới, từ nơi ít người Việt định cư nhất cho tới nơi đông nhất
như ở Mỹ, đều có trường dạy tiếng Việt. Riêng ở Nam California, Mỹ, hoạt
động này đang có sự khởi sắc.
Ngoài những trung tâm Việt ngữ đáng kể ở Little Saigon và San José, các nhà thờ và chùa chiền hầu hết đều mở lớp dạy Việt ngữ cho các em, không phân biệt tuổi tác và trình độ. Nhà thờ Việt Nam ở Cali của Mỹ thì rất nhiều, mỗi quận hạt, khu, xứ đều có một nhà thờ và có lớp dạy Việt ngữ. Chùa Việt Nam ở Cali bây giờ cũng không ít.
Riêng vùng Westminster, Quận Cam, Cali, đi vài con đường lại có một ngôi chùa, có khi trên cùng một con đường mà người ta thấy có tới 3, 4 ngôi chùa khác nhau. Việc bảo tồn văn hoá Việt Nam được các vị hướng dẫn tôn giáo như linh mục, thượng tọa, ni sư nhắc nhở giáo dân, đại chúng mỗi ngày.
Lớp học tiếng Việt càng ngày càng đông và việc học tiếng Việt đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng lưu vong. “Tại Trung tâm Việt ngữ Hồng Bàng, năm nay số học sinh nhập học tiếng Việt lên tới 700 em. Những thầy cô dạy tiếng Việt đều làm việc thiện nguyện hoàn toàn, đã hết lòng chỉ dạy cho các em, nhất là các em vừa vào lớp mẫu giáo tiếng Việt” (trích Việt báo, Chủ nhật, 9/24/2006)
Ngoài những trung tâm Việt ngữ đáng kể ở Little Saigon và San José, các nhà thờ và chùa chiền hầu hết đều mở lớp dạy Việt ngữ cho các em, không phân biệt tuổi tác và trình độ. Nhà thờ Việt Nam ở Cali của Mỹ thì rất nhiều, mỗi quận hạt, khu, xứ đều có một nhà thờ và có lớp dạy Việt ngữ. Chùa Việt Nam ở Cali bây giờ cũng không ít.
Riêng vùng Westminster, Quận Cam, Cali, đi vài con đường lại có một ngôi chùa, có khi trên cùng một con đường mà người ta thấy có tới 3, 4 ngôi chùa khác nhau. Việc bảo tồn văn hoá Việt Nam được các vị hướng dẫn tôn giáo như linh mục, thượng tọa, ni sư nhắc nhở giáo dân, đại chúng mỗi ngày.
Lớp học tiếng Việt càng ngày càng đông và việc học tiếng Việt đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng lưu vong. “Tại Trung tâm Việt ngữ Hồng Bàng, năm nay số học sinh nhập học tiếng Việt lên tới 700 em. Những thầy cô dạy tiếng Việt đều làm việc thiện nguyện hoàn toàn, đã hết lòng chỉ dạy cho các em, nhất là các em vừa vào lớp mẫu giáo tiếng Việt” (trích Việt báo, Chủ nhật, 9/24/2006)
Về
vấn đề giáo trình thì mỗi nơi dạy theo một lối riêng, không thống nhất.
Sách giáo khoa, có nơi soạn và in riêng để dạy hoặc đặt mua ở các trung
tâm Việt ngữ. Còn ở đại học cũng có lớp dạy tiếng Việt cho sinh viên,
sách thường được đặt mua ở Úc. Một giảng sư dạy tiếng Việt tâm sự với
tôi: “Khi
nào gặp những từ ngữ trong nước thì mình tránh đi, không dùng hoặc dùng
từ thông dụng của Sài gòn cũ trước 75 vì nếu dùng cha mẹ của sinh viên,
học sinh biết được, phản đối hoặc kiện cáo, lúc ấy phải đổi sách thì
phiền chết.”
Sự
dị ứng và khước từ việc sử dụng tiếng Việt trong nước của người Việt
hải ngoại có thể đưa tiếng Việt ở hải ngoại đến tình trạng tự mình cô
lập. Thêm nữa, với sự phát triển rầm rộ của kỹ thuật điện toán và thế
giới liên mạng, báo chí, truyền thông của chính người Việt hải ngoại đến
với mọi người quá dễ dàng và tiện lợi. Độc giả cứ lên mạng là đọc được
tiếng Việt Sài Gòn cũ nên họ dường như không có nhu cầu tìm hiểu tiếng
Việt trong nước. Kết quả là tiếng Việt trong và ngoài nước chê nhau!!!
Việc người Việt hải ngoại chống đối và tẩy chay ngôn ngữ Việt Nam đang dùng ở trong nước có vài nguyên do:
Thứ
nhất là do sự khác biệt của ý thức hệ. Những người Việt Nam lưu vong
phần lớn là người tị nạn chính trị. Họ đã từ bỏ tất cả để ra đi chỉ vì
không chấp nhận chế độ cộng sản nên từ chối dùng tiếng Việt trong nước
là gián tiếp từ chối chế độ cộng sản.
Thứ
hai, sự khác biệt của từ ngữ được dùng trong cả hai lãnh vực ngữ nghĩa
và ngữ pháp. Đây là một thí dụ điển hình. Trong cùng một bản tin được
dịch từ một hãng thông tấn ngoại quốc, nhà báo ở trong nước và ngoài
nước dịch thành hai văn bản khác nhau:
Trong
nước: Tàu ngầm hạt nhân Nga bốc cháy Interfax dẫn một nguồn tin Hải
quân Nga cho hay ngọn lửa bắt nguồn từ phòng điện hóa và dụng cụ bảo vệ
lò hạt nhân đã được kích hoạt, do đó không có đe dọa về nhiễm phóng xạ.
Phát ngôn viên hạm đội này cho hay: “Lửa bốc lên do chập điện ở hệ thống
cấp năng lượng phần mũi tàu.
(http://vnexpress.net/Vietnam/The-gioi/2006/09/3B9EDF89/)
(http://vnexpress.net/Vietnam/The-gioi/2006/09/3B9EDF89/)
Ngoài
nước: Hỏa hoạn trên tàu ngầm Nga Hải quân Nga nói rằng lò phản ứng hạt
nhân trên tàu Daniil Moskovsky đã tự động đóng lại và không có nguy cơ
phóng xạ xảy ra. Chiếc tàu đã được kéo về căn cứ Vidyayevo. Nguyên nhân
hỏa hoạn có thể do chạm giây điện.
(http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=48362&z=75)
(http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=48362&z=75)
Một
người Việt hải ngoại khi đọc văn bản thứ nhất sẽ gặp những chữ lạ tai,
không hiểu nghĩa rõ ràng vì sự khác biệt như những chữ: phòng điện hoá,
được kích hoạt, chập điện, hệ thống cấp năng lượng…
Hơn
thế nữa, Việt Nam mới bắt đầu mở cửa thông thương giao dịch với quốc
tế; những từ ngữ mới về điện toán, kỹ thuật, y khoa, chính trị, kinh tế,
xã hội, ồ ạt đổ vào. Có nhiều từ ngữ rất khó dịch sát nghĩa và thích
hợp nên mạnh ai nấy dịch. Ngoài nước dịch hai ba kiểu, trong nước bốn
năm kiểu khác nhau, người đọc cứ tha hồ mà đoán nghĩa. Có chữ thà để ở
dạng nguyên bản, người đọc nhiều khi còn nhận ra và hiểu nghĩa nó nhanh
hơn là phiên dịch.
Trong
việc phiên dịch, theo tôi, địa danh, đường phố, tên người nên giữ
nguyên hơn là phiên dịch hay phiên âm. Nếu có thể, xin chú thích từ
nguyên bản ngay bên cạnh hay đâu đó bên dưới bài viết sẽ giúp người đọc
dễ theo dõi hay nhận biết mặt chữ. Tỷ như việc phiên âm các địa danh
trên bản đồ trong sách giáo khoa của Bộ Giáo dục trong nước là việc đáng
khen nhưng tôi nghĩ, nếu đặt từ nguyên thủy lên trên từ phiên âm thì
các em học sinh chưa học tiếng Anh hoặc đã học tiếng Anh sẽ dễ nhận ra
hơn. Xin lấy tỉ dụ là những địa điểm được ghi trên tấm bản đồ này.
Tôi
thấy một hai địa danh nghe rất lạ tai như Cu dơ Bây, Ben dơ mà không
biết tiếng Mỹ nó là cái gì, ngồi ngẫm nghĩ mãi mới tìm ra: đó là hai địa
danh Coos Bay và Bend ở tiểu bang Oregon, nước Mỹ!
Ngôn
ngữ chuyển động, từ ngữ mới được sinh ra, từ cũ sẽ mất đi như sự đào
thải của định luật cung cầu. Tiếng Việt Sài Gòn cũ ở trong nước thì chết
dần chết mòn; ở ngoài nước, nếu không được sử dụng hay chuyển động để
phát sinh từ mới và cập nhật hoá, nó sẽ bị lỗi thời và không còn thích
ứng trong hoạt động giao tiếp nữa. Dần dà, nó sẽ bị thay thế bằng tiếng
Việt trong nước. Nhất là trong những năm gần đây, sự chống đối việc sử
dụng tiếng Việt trong nước ngày càng giảm vì sự giao lưu văn hoá đã xảy
ra khiến người ta quen dần với những gì người ta đã phản đối ngày xưa.
Tạp chí, sách, báo đã đăng tải và phổ biến các bản tin cũng như những
văn bản trong nước. Người ta tìm được nhiều tài liệu, ấn phẩm, sách nhạc
quốc nội được bày bán trong các tiệm sách. Các đài truyền thanh phỏng
vấn, đối thoại với những nhà văn, nhà báo, chính trị gia và thường dân
trong nước thường xuyên. Đặc biệt, giới ca sĩ, nhiều người nổi tiếng ra
hải ngoại lưu diễn, đi đi về về như cơm bữa. Giới truyền thông bây giờ
sử dụng từ ngữ trong nước rất nhiều, có người mặc cho thiên hạ chỉ
trích, không còn ngại ngùng gì khi dùng từ nữa. Khán thính giả có khó
chịu và chê trách, họ chỉ giải thích là thói quen đã ăn vào trong máu
rồi, không chịu thì phải ráng mà chịu.
Sự
ra đi của một chế độ kéo theo nhiều thứ: con người, tài sản, nhà cửa,
vườn tược, lịch sử… nhưng có cái bị lôi theo mà người ta không ngờ nhất
lại là “cái chết của một ngôn ngữ”.
Đau lòng lắm thay!
Đau lòng lắm thay!
28.11.2006
Trịnh Thanh Thủy
Trịnh Thanh Thủy
(nguồn: Sàigòn-Gia Định: Đất & Người)
No comments:
Post a Comment