Tìm câu giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi này không khó, vì trách nhiệm
hòan tòan thuộc phe thắng trận là đảng CSVN, được Nga-Tầu sử dụng đánh
Mỹ thay cho họ ở chiến trường miền Nam.
Nguyên Tổng Bí thư đảng Cộng sản Lê Duẩn đã nhìn nhận như thế dù trên lý
thuyết nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước 1975 vẫn tuyên truyền
chiến tranh trong Nam là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”.
Câu nói để đời cho đảng CSVN của Lê Duẩn là: "Ta đánh Mỹ là đánh cả
cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho
cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta."
Chưa bao giờ đảng và nhà nước CSVN dám cải chính câu nói này, do Nhà văn Vũ Thư Hiên ghi lại trong Tác phẩm “Đêm Giữa Ban Ngày” do nhà xuất bản Văn Nghệ in và phát hành năm 1997 (trang. 422, phần chú thích).
Cũng thật trớ trêu cho lịch sử, ông Hiên là con trai cụ Vũ Đình Huỳnh, một thời gian dài là bí thư của ông Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhưng cả hai cha con sau đó bị công an bắt bỏ tù vì nghi tham gia vào
phong trào được gọi là “xét lại chống Đảng” (1967-1976) . Nhà văn Vũ Thư
Hiên bị tù 9 năm từ Hỏa Lò qua các nhà tù Bất Bạt (Sơn Tây) và Tân Lập
(Phú Thọ), Phong Quang (Hoàng Liên Sơn). Ông từng bị biệt giam trong xà
lim 4 năm rưỡi. Hiện ông sống tị nạn chính trị ở Pháp.
Nhưng không cần phải đợi đến tiết lộ của Nhà văn Vũ Thư Hiên, người
Việt Nam nào cũng biết cuộc chiến nồi da xáo thịt dài 20 năm, chuẩn bị
từ 1954 để phát động từ 1955, (1955-1975) ở miền Nam , thực chất chỉ là
“cuộc chiến đánh thuê” cho Nga-Tầu của Cộng sản miền Bắc (nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa) chống miền Nam không Cộng sản của Việt Nam Cộng hòa.
Tổn thất đồng minh Bắc-Nam
Nhưng để vuốt mặt cho khỏi xấu hổ, miền Bắc Cộng sản đã lấy cớ “chống
Mỹ” để xua quân đánh chiếm miền Nam sau khi miền Nam phải nhờ vào sự yểm
trợ của trên nửa triệu quân Mỹ (khỏang 541.933) và quân của các nước
đồng minh gồm Nam Hàn, Phi Luật Tân, Thái Lan, Tân Tây Lan và Úc Đại Lợi
để tự vệ chống quân xâm lược miền Bắc.
Miền Bắc không có quân đội của khối Cộng sản, do Nga-Tầu điều binh khiển
tướng trực tiếp tác chiến bên cạnh quân miền Bắc ở các mặt trận trong
Nam hay trên các tuyến xâm nhập đường Mòn Hồ Chí Minh qua Ai Lao, Cao
Miên, hay “đường mòn Hồ Chí Minh trên biển” (sử dụng ven biển để xâm
nhập vào Nam) , nhưng các chuyên viên quân sự và cố vấn Nga-Tầu và các
nước chư hầu của Nga trong khối Liên bang Xô Viết cũ đã có mặt ở miền
Bắc trong suốt 20 năm chiến tranh xâm lăng miền Nam.
Theo Bách khoa Tòan (BKTT) thư mở thì đã có "khoảng 6.000 quân nhân
Xô Viết tham gia vào Chiến tranh Việt Nam với vai trò cố vấn kỹ thuật và
huấn luyện; 16 trong số đó thiệt mạng do bệnh tật hoặc tai nạn."
Phía Trung Hoa có 1.446 công binh bị chết (phần lớn do bệnh tật hoặc tai
nạn), trong khi Bắc Hàn (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên có 14 phi
công chết, 2 cố vấn bị thương.
Nhưng nếu hai khối Cộng sản Nga-Tầu không cung cấp lương thực, quần áo
và súng đạn cho miền Bắc theo đuổi cuộc nội chiến để gây thảm họa cho
nhân dân miền Nam thì ngày nay đã không có hận thù Nam-Bắc và không có
chia rẽ dân tộc.
Tổn thất Mỹ-VNCH và dân thường
Về tổn thất của Hoa Kỳ, BKTT ghi nhận có 58.209 quân nhân tử thương, 153.303 bị thương và 1.948 vẫn còn ghi là mất tích.
Phía các đồng minh khác của VNCH gồm quân đội Nam Hàn có 5.099 tử trận,
11.232 bị thương và 4 mất tích trong chiến đấu. Phi Luật Tân bị 552 tử
trận; Thái Lan có 351 chết và 1.358 bị thương; Úc Đại Lợi bị khoảng 500
chết, bao gồm 426 chết trong chiến đấu và 76 chết vì các nguyên nhân
khác. Cuối cùng là Tân Tây Lan với 55 lính tử trận và 2 dân thường.
Về tổn thất của 2 phía người Việt Nam trong cuộc chiến, tài liệu của BKTT viết: "Số liệu chính thức về thương vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất là:
Theo tài liệu Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) của
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia của nhà nước CSVN thì phiá miền Bắc có:
- 1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân mất tích (chưa tìm được xác)
- 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh.”
Tổn thất của Quân lực VNCH được ước tính có 300.000 tử trận hoặc mất tích và 1.170.000 bị thương.
Vể tổn thất của người dân, BKTT ước tính: "Có từ 900.000 đến
4.000.000 dân thường chết: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (Cộngh sản)
Việt Nam đưa ra con số này vào ngày 3 tháng 4 năm 1995], hai triệu
thường dân tại miền Bắc và hai triệu tại miền Nam đã chết khoảng giữa
năm 1954 và 1975. Con số tổn thất dân sự của miền Bắc có thể là hậu quả
của các chiến dịch ném bom của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam."
Ngoài số thương vong, BKTT cũng báo cáo còn có: "Hơn 2 triệu thường
dân mang thương tật suốt đời; Khoảng 2 triệu người (gồm cả quân nhân)
bị phơi nhiễm các loại hóa chất độc hại."
Với những tổn thất và đổ vỡ như thế thì phe nào trong cuộc chiến phải có
bổn phận hàn gắn vết thương dân tộc? Chẳng lẽ lại là phe người miền
Nam, nạn nhân của cuộc xâm lăng từ miền Bắc?
Thế nhưng trong 42 năm qua, đảng và nhà nước CSVN đã không biến ăn năn
hối lỗi để tạ tội với nhân dân. Ngược lại, họ đã có hành động và ngôn
ngữ "bới đống tro tàn tìm máu đổ" để chạy tội và vụ lợi.
Từ nghị quyết 36 đến dối trá
Tiêu biểu là Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004
"Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài".
Điều then chốt của NQ 36 là tuyên bố "Đảng và Nhà nước ta luôn luôn
coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời
của cộng đồng dân tộc Việt Nam."
Từ quan điểm chính trị “vơ vào” này, đảng CSVN đã sử dụng mọi mánh khoé
và hậu ý của ngôn từ để mồi chài và đánh lừa người Việt Nam ở nước ngoài
nói chung và nói riêng những người Việt miền Nam đã chạy thoát chế độ
hà khắc và kỳ thị Cộng sản chạy ra nước ngoài tìm tự do.
NQ 36 chủ trương: "Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá
khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng,
thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt
Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã
hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều
được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc."
Nhưng thực tế thì khác. Đảng CSVN chỉ muốn người Việt ở nước ngoài, nhất
là giới chuyên gia, trí thức và các nhà kinh doanh quay đầu về “hội
nhập” vào guồng máy cai trị của nhà nước để giúp mở mang dân trí, ngành
nghề, nhất là hai lĩnh vực khoa học và kỹ thuật để giúp Việt Nam phát
triển theo đường lối và chính sách cai trị độc tôn và đôc quyền của đảng
CSVN.
Vì vậy, nhà nước CSVN đã thất bại. Cho đến nay, sau 13 năm thi hành NQ
36, số trí thức về giúp nước chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nguyên do vì
đảng đã coi thường trí thức không có đảng tịch, ganh tị và kỳ thị trí
thức “kiều bào” và luôn luôn đặt cán bộ đảng học dốt, bằng dổm chỉ huy
người có bằng thật và có kiến thức kinh nghiệm chuyên môn vuợt trội hơn.
Ngay đến các du học sinh theo học ở nước ngoài bằng tiền nhà nước Việt
Nam cũng rất ít người muốn trở về phục vụ vì ở Việt Nam không có điều
kiện và phương tiện cho họ hành nghề và phát triển kiến thức. Hơn nữa,
dù có học giỏi và có bằng cao nhưng không là hậu duệ của con ông cháu
cha, không quen biết, không nhờ cò hối lộ xin việc thì bằng cấp chỉ là
thứ không đáng một đồng xu.
Trong lĩnh vực kinh doanh, con số doanh nhân Việt kiều về nước làm ăn
cũng không nhiều và nếu có, chỉ tập trung vào các linh vực có lợi nhuận
và kiếm lời nhanh như bất động sản và du lịch.
Lý do không có Việt kiều nào dám bỏ tiền đầu tư vào các dự án kinh tế
lớn và bền vững vì nhà nước chỉ muốn bảo vệ các Doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) để cho các phe phái và lợi ích nhóm có phương tiện ăn chia với
nhau và để nuôi đảng.
Hơn nữa, nhà nước CSVN lại gỉa bộ không biết cái gía của tự do và dân
chủ mà các trí thức Việt kiều và doanh nhân người Việt đã được hưởng ở
nước ngoài nên khi họ về nước làm việc đã lập tức bị những con mắt cú vọ
của Công an khu vực dòm ngó theo dõi từng bước đi mà lời nói, khiến có
người vừa về Việt Nam đã muốn quay gót ra đi ngay.
Tình hình này cũng đã khiến không có mấy người Việt Nam, dù sống lâu năm
ỡ nước ngoài, muốn quay về Việt Nam sống cho hết cuộc đời, dù biết phải
đau lòng bỏ lại Việt Nam mồ mả của cha mẹ, anh em và Tổ tiên.
Từ thông tin đến xâm nhập
Về phương diện thông tin, NQ 36 chủ trương: "Đổi mới mạnh mẽ và toàn
diện công tác thông tin, tuyên truyền, giúp cho người Việt Nam ở nước
ngoài hiểu đúng tình hình đất nước và chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài của đài
phát thanh, truyền hình và Internet; chú trọng đổi mới nội dung, hình
thức và kỹ thuật của các chương trình này. Hỗ trợ việc ra báo viết, mở
đài phát thanh, truyền hình ở ngoài nước. Xây dựng thư viện trên mạng
Internet để phục vụ cho người Việt Nam sống xa Tổ quốc. Hỗ trợ kinh phí
vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa
phẩm ra ngoài phục vụ cộng đồng."
Nhưng khi thi hành thì Nhà nước đã thất bại ê chề vì con số người Việt
Nam ở nước ngoải, dù có coi báo đài trong nước hay các chương trình phát
sóng ở nước ngoài cũng không mảy may thay lòng đổi dạ để “thay áo quốc gia bằng áo Cộng sản”.
Lý do vì các cơ quan truyền thông và báo của người Việt tị nạn ở khắp
thế giới đã khuynh loát và nhấn sâu xuống bùn đen mọi nguồn thông tin
không thật, dối trá và lươn lẹo” của Bộ Thông tin-Truyền thông và báo
đài nhà nước.
Người Việt Nam sống ở nước ngoài, cũng như rất đông người Việt ở trong
nước ngày nay đã thông minh, sáng suốt và nhạy bén với thông tin nhanh
chóng và đúng sự thật của những “nhà báo lề dân” đang can đảm hoạt động
chống lại thông tin một chiều và sai sự thật của báo “lề đảng”.
Bằng chứng là các mạng báo điện tử của người Việt không Cộng sản ở nước
ngoài đã kết nối thành công và nhanh chóng với các nhà báo tự do, các
blocger, các tổ chức xã hội dân sự và Face book trong nước để, chỉ trong
nháy mắt, đã truyền tải đầy đủ tin tức và hình ảnh sự thật của biến cố
trong nước đến người Việt Nam trên thế giới, và ngay cả ở Việt Nam.
Sự lép vế ngày một rõ ràng của báo chí nhà nước đã đẩy lùi NQ 36 vào
sâu trong bóng tối trong cuộc chiến truyền thông giữa nhà nước Việt Nam
và người Việt quốc gia ở nước ngoài.
Ngay cả đến công tác xâm nhập cán bộ vào các tổ chức Cộng đồng người
Việt Nam, hoặc mồi chài tay sai để vu khống và phá họai hàng ngũ người
Việt Nam ở nước ngoài cũng thất bại.
Nếu Ban Tuyên giáo, Bộ Thông tin và Truyền thông và Cục Chính trị quân
đội không tin thì cứ hỏi Đại sứ Việt Nam ở Moscow, ông Nguyễn Thanh Sơn,
nguyên Chủ nhiệm Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài xem ông ta đã nếm
những thất bại chua cay như thế nào khi còn tại chức và trong các chuyến
đi tuyên truyền cho NQ 36 ở Hoa Kỳ và Châu Âu.
Ai buồn-ai vui?
Nhưng trong hàng ngũ đảng CSVN sau 42 năm Sài Gòn bị quân Cộng sản
cưỡng chiếm, vẫn không thiếu những kẻ chỉ biết to mồm khoe chiến thắng
để chia rẽ dân tộc và xuyên tạc sự thật.
Điển hình như các cuộc biểu tình đấu tranh tranh đòi đền bù công bằng
và đòi đóng cửa Fomosa để bảo vệ môi trường của đồng bào Hà Tĩnh, Nghệ
An và Qủang Bình từ đầu năm 2017 đã bị Công an đàn áp và chống phá. Báo
đài Hà Tĩnh và báo lề đảng đã xuyên tạc các cuộc tranh đấu hòa bình là
phá rối an ninh trật tự và cuộc sống thanh bình của người dân.
Người dân, các Linh mục lãnh đạo biểu tình và Đức cha Nguyễn Thái Hợp,
vị chủ chiên của đồng bào Công giáo địa phận Vinh còn bị vu khống và
buộc tội nhận sự yểm trợ tài chính và tinh thần của cái mà Công an và
báo đài nhà nước gọi là “các thế lực thù địch bên ngoài”.
Rồi các cuộc khiếu kiện đền bù của người dân bị cuỡng chế đất đai, tiêu
biểu như vụ Đồng Tâm, cách Hà Nội 40 cây số cũng đã bị đàn áp, bắt tù
người tranh đấu vô tội.
Như vậy thì hòa hợp, hòa giải được với ai?
Ngay đến đồng bào trong nước
mà còn bị kỳ thị, bị cai trị bằng dùi cui và công an đội lốt côn đồ đánh
phá, tấn công ở bất cứ đâu và không trừ ngày hay đêm thì làm sao mà
những nạn nhân của ngày 30/4/1975 có thể quên được những khổ đau và đọa
đầy mà đảng CSVN đã gây ra cho đồng bào miền Nam trong 42 năm qua?
Trong nỗi bất hạnh này là chính sách kỳ thị man rợ của nhà nước CSVN đã
áp dụng trong mọi lĩnh vực, kể cả xin việc làm và giáo dục, chống lại
con cháu của những người của chế độ VNCH.
Nhưng trong 42 năm qua, liệu có khi nào lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN ở
Hà Nội biết nếm nỗi đắng cay của những gia đình người miền Nam có hàng
trăm ngàn thân nhân bị bắt đi tù lao động cực hình, hay đã bỏ thây
trong các trại tập trung được mạo danh là “cải tạo học tập”?
Hoặc có bao giờ họ thấu được nỗi oan khiên của hàng chục ngàn đồng bào,
được thế giới gọi là “thuyền nhân” (boat people) đã chết tức tưởi và ô
nhục trên đường vượt biển tìm tự do sau ngày quân Cộng sản miền Bắc vào
Sài Gòn, 30/4/1975?
Tất cả những hình ảnh bi thảm này của người dân miền Nam vẫn sống động như mới xẩy ra hôm qua.
Và cuối cùng, những người Cộng sản ngày nay, nếu còn sót dòng máu Việt
Nam trong cơ thể thì nên bình tĩnh chiêm nghiệm di chúc của Nguyên Thủ
tướng Võ Văn Kiệt đã để lại cho họ:
"Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá
cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch sử đã đặt
nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở
phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì
thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu
người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung
của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu."
(Phỏng vấn của báo báo Tổ Quốc, ngày 31/03/2005)
Như vậy thì liệu Lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN có nên tự xét mình xem
họ đã làm được gì để hàn gắn vết thương dân tộc hay chỉ biết gây ra
những chia rẽ mới?
(05/016)
No comments:
Post a Comment