Việt Nam có lẽ đã có những tính toán trong việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Thông tư 19 (TT19) cho phép dùng tiền nhân dân tệ tại bảy tỉnh biên giới Việt Trung.
Hai cái lợi ngắn hạn trước mắt được dẫn chứng qua thông tin "đại chúng" hay trong vài tài liệu dẫn đến TT 19 là sẽ "giúp thương nhân VN sản xuất và buôn bán dễ dàng hơn ở các tỉnh biên giới", và hy vọng "giúp giới sản xuất và đầu tư TQ di chuyển một số hãng xưởng sản xuất và dự án đầu tư sang VN".
Một vài chuyên gia ở Việt Nam đã phát biểu phần nào ủng hộ cho TT 19 trên, cho rằng đã nghiên cứu kỹ và "tìm ra các văn bản pháp quy bảo đảm chặt chẽ cho TT 19 về giới hạn phạm vi áp dụng và cơ chế giám sát thực hiện" để không có việc dùng lan tràn tiền TQ trong lãnh thổ VN, gây ra lo ngại của cả nước về hiểm họa Trung hóa cả nền tiền tệ trong tương lai gần, và cả nền kinh tế đất nước trong tương lai không xa.
Để phân tích kỹ hơn các yếu tố sâu xa cả trong ngắn hạn và dài hạn, bài thảo luận ngắn này trình bày các mối hại lớn hơn nhiều cho guồng máy sản xuất VN và cả nền kinh tế VN trong 2-3 năm tới, làm VN hoàn toàn lệ thuộc TQ về kinh tế và chính trị.
Trong ngắn hạn, TT 19 sẽ tác động tai hại lên chính sách tiền tệ độc lập của VN, làm suy yếu tiền VND và sẽ gây ra các biến động tiền tệ và tâm lý khó lường trong vòng từ 3-6 tháng, nhất là việc đầu cơ tiền tệ có thể làm tan biến khối dự trữ ngoại tệ 65-70 tỷ đô la của NHNN một cách nhanh chóng nếu muốn dùng dự trữ đó để bảo vệ tỷ giá sau này.
Sau khi phân tích các điểm này, thì kết luận rõ ràng là LỢI BẤP CẬP HẠI như sau, trong tóm tắt các điểm chính cho một cuộc thảo luận cần có gấp rút.
1. Vấn đề vi hiến:
- Chủ quyền kinh tế, chủ quyền tiền tệ là những cấu thành đặc biệt của chủ quyền chính trị, chủ quyền quốc gia; mất chủ quyền tiền tệ này là mất chủ quyền quốc gia, như TS Lê Đăng Doanh ở Hà nội đã từng nêu.
- TT 19 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho phép đồng NDT được lưu hành tại bảy tỉnh biên giới TQ-VN, sẽ không có cơ chế nào hữu hiệu để ngăn chặn những đồng NDT được sử dụng ở những nơi khác ngoài bảy tỉnh đó; và mặc nhiên NDT trở thành một loại tiền tệ chính thức (legal tender) ở VN.
2. Có sự hiểu nhầm hay cố ý không hiểu khác biệt giữa chấp nhận NDT trong giỏ tiền tệ của IMF và dùng NDT như một loại tiền tệ của quốc gia:
-Giỏ tiền tệ chỉ dùng làm mốc cho việc xác định tỷ giá của tiền trong nước và không có liên quan gì đến việc dùng tiền tệ của một quốc gia. Một số đông người có thể hiểu lầm rằng NDT có trong giỏ tiền SDR của IMF (một sự thực) là coi như NDT là đồng tiền chuyển đổi tự do, là có thể được các nước chấp nhận làm đồng tiền thanh toán trong giao dịch quốc tế.
Thí dụ dễ hiểu về khái niệm của đồng tiền chính thức (legal tender) và giỏ tiền tệ: Thái lan dùng tiền Baht như là đồng tiền chính thức duy nhất trong nước họ nhưng lại dùng SDR (giỏ tiền tệ nổi tiếng của IMF với nhiều tiền "lớn" khác kể cả NDT) làm tiêu chuẩn ấn định tỷ giá của họ. Nếu có cả USD và NDT, ảnh hưởng chuyển động trái ngược của tỷ giá hai đồng tiền này trong giỏ chọn lựa sẽ có tác động trung hòa với tiền Baht nếu Ngân hàng Trung ương Thái lan không quyết định tăng hay giảm ảnh hưởng của một thứ tiền trong giỏ đó.
-Thông tư 19 mặc dù không công nhận NDT là đồng tiền chính thức của Việt nam nhưng việc NHNN cho phép lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam tức là công nhận NDT là đồng tiền chính thức thứ hai (dual currency), lưu hành song song với VND.
3. Tác động quan trọng nhất là lên tỷ giá VND và chính sách tiền tệ độc lập của NHNN ở VN:
- Thông tư 19 của NHNN cho phép 95 triệu dân ở Vân Nam và Quảng Tây cùng với vài triệu dân VN, hay gần 100 triệu người tức hơn toàn bộ dân số VN hiện nay, được dùng NDT cho chi thu thương mại và đầu cơ tiền tệ ở trên lãnh thổ VN.
- Tuy gọi là biên mậu, mậu dịch ở biên giới, nhưng ở phía TQ cũng như ở VN liệu có quy định nào giới hạn phạm vi trao đổi chỉ của các tỉnh biên giới. Thực tế ở VN là lâu nay các tỉnh miền nam vẫn đưa hàng lên biên giới bán cho TQ và được coi là biên mậu đấy. Điều này cho thấy nguy cơ NHNN không kiểm soát được chính sách tiền tệ, khả năng phụ thuộc vào đồng tiền TQ là rất lớn.
- Tùy số tiền NDT của TQ được nới rộng hay thu hẹp ở VN, NHNN sẽ không kiểm soát được khối tiền tệ lưu hành ở VN, và ngay cả không có số đo chính xác về khối tiền đó trong nước, như từ trước đến nay. Quan trọng nhất, NHNN mất cả khả năng ấn định chính sách tín dụng rộng hay thắt chặt một cách độc lập.
- Ngoài ra, tỷ giá VND sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi tỷ giá NDT. Đây là vấn đề rất quan trọng hiện nay, vì trong cuộc thương chiến Mỹ - Trung hiện tại, tiền NDT đã mất giá 8% từ tháng 4, trong khi VND chỉ mới mất giá 3% so với USD.
- Sự lan truyền mạnh của NDT ở VN sang hai trung tâm tiền tệ lớn là Hà Nội và Sài Gòn sẽ có thể làm VND mất giá thêm 4-5% trong thời gian ngắn do đầu cơ tiền tệ, ngay cả lúc chưa có tác động nào khác của các yếu tố thương mại giữa tay ba Mỹ-TQ-VN (như bàn dưới đây).
- Tương lai cuộc thương chiến Mỹ - Trung đang có đà sẽ bộc phát mạnh mẽ hơn để "thị uy" nhằm mục đích chiến tranh tâm lý trước khi thương nghị chính thức trở lại giữa hai quốc gia và với các đối tác khác. Trong tháng 9, gần như có thể là Mỹ sẽ tuyên bố áp thêm thuế 25% lên 200 tỷ đô hàng nhập từ TQ. Để trả đũa, TQ chỉ có thể áp lên cùng thuế này trên số hàng nhập còn lại từ Mỹ trị giá 80 tỷ đô (tổng số hàng nhập từ Mỹ là 130 tỷ năm 2017). Điểm yếu huyết mạch của TQ là chỗ này. Dân chúng và giới thương gia TQ nhất định sẽ phải "phòng thủ" bằng cách trốn khỏi tiền NDT qua dự trữ USD, tiền yen, Euro, và có thể là vàng (nơi ẩn trú tiền để dành quan trọng của dân Á đông).
- Việt Nam sẽ mất nguồn ngân sách quan trọng trong kinh tế học gọi là "seignorage" khi không chủ động được chính sách tiền tệ của quốc gia.
- Nếu tiền NDT xuống quá mức 7,0 - 7,2 ăn 1 USD, hệ thống tiền tệ TQ sẽ rối loạn toàn bộ. Và ảnh hưởng lên tỷ giá VND do một mình yếu tố đầu cơ tiền tệ này thôi sẽ có thể dễ dàng đẩy tỷ giá VND tới mức 24.000-24.500/1 USD.
4. Tác động gia tăng của thương chiến Mỹ-TQ lên kinh tế và tỷ giá VND:
- Theo kinh nghiệm về tiền tệ thế giới, đồng tiền mạnh bao giờ cũng lấn át đồng tiền yếu. Nếu như đồng NDT với số lượng hàng hóa ở đằng sau và với việc họ phá giá tiền của họ, giá thành của hàng TQ rẻ đi, sẽ tạo ra một ưu thế rất lớn với hàng hóa của Việt Nam. Nhiều kỹ nghệ của VN sẽ bị bóp nghẹt.
- Việc ai cũng e ngại là TQ sẽ tuồn hàng sang VN để xuất khẩu sang Mỹ nhằm tránh áp thuế cao. Mỹ đã sẵn sàng với việc này và sẽ áp thuế lên hàng nhập từ VN và ngay cả ngăn chặn hàng VN có "gốc TQ" được nhận biết khá dễ dàng qua hệ thống tin tức thương mại của Mỹ.
Vài câu kết ngắn:
- Theo vài chuyên gia, Việt Nam có thể do tính toán lo ngại bị lôi vào vùng khủng hoảng tiền tệ, như đã và đang xảy ra ở các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Venezuela, Argentine… Nếu Việt Nam có ý muốn "dựa" vào đồng nhân dân tệ để "tránh bão", đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm lúc này.
- NHNN cần xét lại TT 19, tính toán lại các dự định trong việc cho NDT lưu hành trước hết ở bảy tỉnh biên giới, sau đó lan rộng đến Hà Nội và Sài Gòn, sẽ là việc rất khó kiểm soát.
- Một nghịch lý trớ trêu cho chính sách NHNN là cố chống việc đô la hóa trong quá khứ nay lại chính thức hóa và hỗ trợ việc nhân dân tệ hóa tiền đồng VN. Hơn nữa, TQ đang là nước có liên hệ thương mại cao nhất với VN và đứng đầu trong danh sách nhập siêu của VN. Nay TT 19 lại giúp cho việc nhập khẩu hàng TQ dễ dàng hơn nữa, gồm cả nhập khẩu "chính ngạch" và "tiểu ngạch--lên đến 30 tỷ đô". Liệu ai có thể giải thích rõ thêm về mục tiêu chính sách của NHNN?
- Không cần nói thêm, việc ban hành và áp dụng TT 19 cùng lúc với việc tiếp tục cứu xét thiết lập 3 đặc khu kinh tế ở những vùng nhậy cảm cho an ninh quốc gia, sẽ gây hiểm họa trầm trọng cho đất nước.
*Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một kinh tế gia từ California, Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment