Tuesday, May 5, 2020

ĐIỆU BUỒN THÁNG TƯ:( Kỳ 3)

Đã có nhiều người thuộc phe Cộng sản và ngay cả một số nhà bình luận đã nhận xét đại khái “CSVN dù có xấu những họ đã rất giỏi nên mới thắng được Pháp, Mỹ và VNCH…”. Chuyện CSVN có thắng được Pháp hay không thì cho đến giờ này người ta đã thừa biết La Quý Ba, Vi Quốc Thanh và hàng trăm nghìn quân Tàu cộng cùng với sự khó khăn của nước Pháp sau đại chiến Thế giới chính là nguyên nhân “chiến thắng” của CSVN. Vậy còn cuộc chiến với Mỹ và VNCH thì thế nào ? Cái gọi là “chiến thắng” trong ngày 30/4/1975 của CSVN thực tế thế nào?. Xin mời bạn đọc tìm hiểu về sự kiện này.
1-Viện trợ cho VNCH bị cắt, viện trợ cho CSVN lại tăng:
Chúng ta có thể thấy trong cuộc chiến tranh Việt Nam, đứng đằng sau VNCH là người Mỹ. Còn đứng sau VNDCCH là Liên Xô và Trung cộng. Cho đến trước năm 1973 thì quân đội cộng sản trong các chiến dịch đánh chiếm miền Nam, họ đều không thành công và chịu tổn thất nặng nề về cả trang thiết bị quân sự như năm 1968, 1972 .Vậy tại sao một chính thể dân chủ, tự do như vậy lại thất bại? Lý do đó là họ bị chính đồng minh của họ quay lưng.
Người Mỹ thật ra không thua trong cuộc chiến tại Việt Nam, họ từ bỏ người đồng minh VNCH bởi vì hai lý do: Họ không muốn tiếp tục một cuộc chiến hao tiền tốn của mà ở một đất nước đề cao tình nhân bản như Mỹ không cho phép cùng với sự giật giây của CSVN trong vấn đề kích động phe phản chiến tại Mỹ gây sức ép với chính quyền Mỹ. Và một phần nào đó là chính sách đối ngoại của ngoại trường H. Kissinger quay sang với Tàu cộng.
Trong một bài viết của báo Thanh Niên – của CSVN có nhan đề“Mỹ bỏ rơi VNCH” lấy tư liệu của CIA được chính những CS công nhận có viết: “Ngày 21.4, Tổng thống Thiệu từ chức ở Sài Gòn. Ngày 23.4, Tổng thống Ford đáp chuyên cơ đi News Orleans để diễn thuyết tại Đại học Tulane. Tình hình VN biến chuyển quá nhanh, và dư luận quốc tế cũng như cử tri Mỹ đang chờ đợi xem vị nguyên thủ cường quốc hàng đầu thế giới sẽ nói gì đây. Theo tài liệu thì chiều hôm đó, như để lấy thêm can đảm, Tổng thống Ford đã uống một ly cocktail trong tiệc chiêu đãi, rồi ông bước vào nơi mọi người đang chờ nghe diễn văn. Địa điểm Tổng thống Ford diễn thuyết là sân chơi bóng trong nhà của trường đại học, nơi đã có hàng ngàn sinh viên tụ họp chờ đợi. Ông chậm rãi, nhấn mạnh từng chữ: “Đối với Mỹ, chiến tranh VN đã kết thúc”.
Chỉ cần nhìn vào câu nói của ông Ford cũng cho thấy với người Mỹ việc bỏ VNCH cho cộng sản xâm chiếm là điều hiển nhiên. Vậy thì VNCH có thua trong trận chiến cuối cùng cũng chỉ là một điều bình thường nằm trong toan tính của người Mỹ.
Nói đến việc bỏ rơi VNCH của Mỹ chúng ta cũng phải nhìn nhận ở các con số thực tế. Thực chất VNCH nhận viện trợ từ Mỹ gồm 2 phần đó là kinh tế và viện trợ quân sự. Xin nêu ra đây một ví dụ:
“Viện trợ của Mỹ cho VNCH gồm hai phần, viện trợ kinh tế và viện trợ quân sự. Về viện trợ kinh tế, trong tài khóa 54-64 thì tổng số tiền là 2.121.000.000 USD (lúc bấy giờ), trong đó 2.025.000.000 là dưới hình thức không hoàn lại, 96 triệu là viện trợ tín dụng dài hạn.. Số tiền trên, 1.874.000.000 là nằm trong chương trình AID (Agency for International Development) và 247.000.000 thuộc chương trình Nông phẩm thặng dư hay với tên gọi “Thực phẩm cho Hòa bình””

Trong khi đó thì CS Bắc Việt tuy nhân dân nghèo đói nhưng lại hầu như nhận được viện trợ quân sự từ chính quyền Xô Viết và Trung cộng. Tại sao nhân dân một nước nghèo đói lại không được chính quyền chăm lo kinh tế mà phải đi xin viện trợ quân sự để đánh nước khác có văn minh, có nền kinh tế, giáo dục phát triển mạnh hơn? Đó chính là mưu đồ nhuộm đỏ Việt Nam mà Hồ Chí Minh có nhiệm vụ thực hiện để dâng tặng Trung cộng, triệt tiêu nội lực dân tộc. Đây là con số viện trợ đã tăng lên theo thời gian mà CSVN nhận được từ phe CS:
– Thời kỳ 55-60: LX tặng 400 triệu rúp cũ, cho vay 510 triệu rúp cũ. TQ tặng 900 triệu NDT cho vay 300 triệu NDT.
– Thời kỳ 60-65: LX tặng 20 triệu rúp cũ, cho vay 430 triệu rúp cũ. TQ cho vay 141,75 triệu rúp mới. Quy ra VNĐ (thời bấy giờ) thì VNDCCH đã nhận tổng viện trợ 4.229.786.023 VNĐ, trong đó viện trợ không hoàn lại là 1.524.599.823 VNĐ và vay tín dụng là 2.705.186.200 VNĐ”.
Và những con số và điều khẳng định ưu thế được viện trợ hơn hẳn về mặt quân sự này cho thấy những gì thuộc về “chiên thắng” chỉ là vẻ bề ngoài bóng bẩy che lấp sự thật là CSVN đã được chi viện một cách kinh khủng để tiến hành chiếm đánh Miền Nam.
Ngoài ra, CSVN đã có những thông tin cho thấy họ biết VNCH đang bị Mỹ cắt giảm dần viện trợ theo thơi gian. Đây là báo cáo “Tình hình viện trợ của địch” của Cục nghiên cứu – Bộ tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam (VNDCCH) về tình hình viện trợ của Mỹ cho VNCH:
Ngân sách năm 1969
Ngân sách năm 1970
Chỉ cần lấy ví dụ nhỏ đã cho thấy theo thời gian viện trợ về kinh tế và kỹ thuật, quân sự của Mỹ cho VNCH đã càng ngày càng giảm đi. Vậy thì một nước đang tứ bề thọ địch lại bị cắt giảm chi viện cả về kinh tế, quân sự phải chịu thua trước một nước là những kẻ cướp được viện trợ đầy đủ hơn có gì là phi lý?…
Cuối cùng, chúng ta có thể thấy được thêm một sự khẳng định này qua đoạn trích dưới đây trong cuốn sách là hồi ký của tướng cộng sản Văn Tiến Dũng mang tựa đề Đại thắng mùa xuân có đoạn: “Nhận thấy tình hình Mỹ không còn muốn chi viện cho địch, bộ chính trị và bộ tổng tham mưu họp khẩn trương thống nhất để tổng tấn công trên khắp miền Nam…”
Qua đây chúng ta thấy điều gì? Đó là chính các vị tướng của cộng sản cũng nhận thấy Mỹ đã bỏ rơi VNCH và điều này cho thấy cái sự thật của “đại thắng mùa xuân” chỉ là lừa dối.
Trong giai đoạn sau năm 1973, trong khi VNCH bị Mỹ bỏ rơi như đã chứng minh ở trên thì ngược lại phía VNDCCH lại được chi viện một cách khủng khiếp về mặt kinh tế nhưng đặc biệt tăng vọt về mặt quân sự. Điều này lý giải cho “Chiến thắng” của đảng cộng sản chỉ là một điều hết sức bình thường của kẻ mạnh so với kẻ đang yếu thế. Không phải lúc đó VNCH đang mạnh hơn VNDCCH như đảng cộng sản vẫn tuyên truyền. Chúng ta có thể thấy sự chi viện khủng khiếp về mặt quân sự đối với CSVN trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến Bắc – Nam.
Một báo cáo của quân đội Liên Xô năm 1977 và họ đã công nhận gửi đoàn cán bộ cố vấn đề tăng thêm sức mạnh cho quân đội VNDCCH trong năm 1974. Và cũng báo cáo đó trang 23 có viết “Trong năm 1974, chúng ta đã chi viện thêm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 100 xe tăng T54, một trung đoàn tên lửa phòng không SA-2, 300 tên lửa vác vai SA-7., 2 trung đoàn và cơ số đạn pháo 130 mm….“Như vậy trong khi VNCH bị cắt giảm viện trợ đến mức đạn không đủ bắn thì VNDCCH lại có thêm chi viện khổng lồ về quân sự đến thế. Vậy sức mạnh đâu phải nhờ “Đảng lãnh đạo”? Sức mạnh là do ưu thế về số lượng quân cụ vượt trội. Nhiều bài viết trên các báo chí của nhà cầm quyền CSVN Việt Nam cũng đã cho biết:
Một trong những ủng hộ kịp thời và giá trị của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam trong những năm 1965-1975 là viện trợ quân sự. Tên lửa “đất đối không” của Liên Xô đã được sử dụng lần đầu tiên tại Việt Nam vào ngày 24-7- 1965 và đã bắn rơi máy bay Mỹ.
Trong giai đoạn 1965-1968, số hàng viện trợ quân sự của Liên Xô cũng tăng vọt: 226.969 tấn 6. Mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, khi cuộc chiến đấu của quân dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc diễn ra quyết liệt, chúng ta rất cần vũ khí, đạn dược, Liên Xô đã đưa gấp sang Việt Nam “100 khẩu súng chống tăng, 500 súng cối các loại, 400 dàn pháo phản lực và 45 chiếc máy bay chiến đấu” 7. Như vậy, trong hai năm 1966-1967, Liên Xô là nước cung cấp chủ yếu viện trợ quân sự cho Việt Nam. Tính ra, “Liên Xô đã cung cấp 500 triệu rúp trang thiết bị cho lực lượng quân sự Bắc Việt Nam (xấp xỉ 550,5 triệu USD)”8. Trong những năm 1969-1972, mức viện trợ quân sự của Liên Xô cho ta đạt 143.793 tấn. Chỉ riêng năm 1969, giá trị hàng viện trợ quân sự lên tới 1,1 tỷ rúp. Cùng với viện trợ quân sự, Liên Xô còn tích cực đào tạo giúp Việt Nam đội ngũ cán bộ quân sự giỏi, có thể vận hành được những vũ khí hiện đại do Liên Xô cung cấp. Riêng năm 1966, có 2.600 sĩ quan Việt Nam được đào tạo tại Liên Xô. Đồng thời, nhiều chuyên gia quân sự của Liên Xô cũng đã sang chiến trường Việt Nam trực tiếp giúp bộ đội Việt Nam về mặt kỹ thuật. Từ năm 1969-1971, Liên Xô đã ký với Việt Nam 7 hiệp nghị viện trợ và tăng cường hợp tác kinh tế, quốc phòng.
Từ năm 1973-1975, Liên Xô chuyển sang Việt Nam 65.601 tấn 9 hàng hậu cần và trang bị vũ khí, kỹ thuật. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo cho quân dân ta đẩy mạnh các hoạt động quân sự và giành thắng lợi quyết định trên chiến trường, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (1-1973) và đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đi đến kết thúc. Liên Xô cũng không ngừng viện trợ kinh tế cho Việt Nam. Kể từ năm 1965, Liên Xô đã ký với Việt Nam nhiều hiệp định viện trợ và hợp tác. Riêng năm 1965-1966, Liên Xô đã chuyển sang Việt Nam khối lượng hàng hóa trị giá khoảng 38,5 triệu rúp 10. Trong năm 1968, Liên Xô đã viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam ước tính khoảng 543,3 triệu rúp (tương đương với 608,1 triệu USD)11. Như vậy, viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam trong năm 1968 đạt mức cao nhất, chiếm khoảng 50% viện trợ của các nước XHCN. Từ năm 1969-1972, Liên Xô và Việt Nam liên tiếp ký kết các hiệp định về việc Liên Xô viện trợ không hoàn lại, cho vay dài hạn, về trao đổi hàng hóa… phục vụ cho nhu cầu củng cố quốc phòng và phát triển kinh tế của Việt Nam. Trên tinh thần các hiệp định đã ký kết, Liên Xô cho Việt Nam vay khoản tiền ưu đãi là 152 triệu rúp không phải trả lãi. Năm 1973, Liên Xô đã xóa cho Việt Nam các khoản nợ cũ từ năm 1973 trở về trước (khoảng 1,3 tỷ rúp). Trong những năm 1974-1975, Liên Xô đã cố gắng giải quyết những nhu cầu thiết yếu của Việt Nam về lương thực, thực phẩm, xăng dầu, sắt thép…, góp phần tích cực phát triền kinh tế Việt Nam
Qua đây chúng ta thấy có một khối lượng khổng lồ viện trợ của Liên Xô dành cho Việt Nam cộng sản. Ngoài ra quan trọng hơn chúng ta thấy, sau năm 1973 trong khi VNCH bị cắt giảm viện trợ thì VNDCCH lại được tăng viện thêm đáng kể và đặc biệt còn được xóa nợ. Vậy thì sức mạnh thật sự của “đại thắng mùa xuân” năm 1975 của cộng sản phải được gọi là chiến thắng của Liên Xô và Trung Cộng thì đúng nghĩa hơn.
Một tài liệu khác tại BBC Việt Ngữ có bản thống kê viện trợ của VNDCCH nhận được theo từng giai đoạn. Bài viết trích dẫn ngay bài viết của hai tác giả cộng sản thuộc viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, hai tác giả đó là Lê Quang Lạng và Trần Tiến Hoạt. Bài viết của hai tác giả thống kê những con số về vũ khí, đạn dược và trang bị kỹ thuật mà khối XHCN đã viện trợ:
Khối lượng hàng quân sự Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ từ năm 1955 đến 1975, qua từng giai đoạn:
Giai đoạn 1955-1960: tổng số 49.585 tấn, gồm: 4.105 tấn hàng hậu cần, 45.480 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: viện trợ 29.996 tấn, Trung Quốc viện trợ 19.589 tấn.
Giai đoạn 1961-1964: tổng số 70.295 tấn, gồm: 230 tấn hàng hậu cần, 70.065 tấn vũ khí, trang bị – kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 47.223 tấn: Trung Quốc 22.982 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 442 tấn.
Giai đoạn 1965-1968: tổng số 517.393 tấn, gồm: 105.614 tấn hàng hậu cần, 411.779 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 226.969 tấn, Trung Quốc: 170.798 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác 119.626 tấn.
Giai đoạn 1969-1972: tổng số 1.000.796 tấn, gồm: 316.130 tấn hàng hậu cần, 684.666 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô 143.793 tấn, Trung Quốc 761.001 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác 96.002 tấn.
Giai đoạn 1973-1975: Tổng số 724.512 tấn, gồm: 75.267 tấn hàng hậu cần, 49.246 tấn vũ khí, trang bị – kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 65.601 tấn, Trung Quốc: 620.354 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 38.557 tấn.
Tính tổng cộng qua 20 năm, theo thống kê chính thức của Việt Nam, số viện trợ mà Việt Nam nhận được là 2.362.581 tấn hàng hóa; khối lượng hàng hóa quân sự trên quy đổi thành tiền, tương đương 7 tỉ rúp.”
Như vậy ta có thể thấy liên tục qua nhiều năm viện trợ quân sự của VNDCCH đến từ các nước cộng sản gần như không suy suyển mà thậm chí còn tăng lên. Vậy thì sự thật về sức mạnh quân sự đã thực sự nghiêng về phía cộng sản qua những con số biết nói đó.
Như vậy thì rõ ràng cộng sản Việt Nam đã công nhận họ luôn có sự ủng hộ, chi viện từ phía Liên Xô, Trung cộng dù trong bất cứ giai đoạn nào của cuộc chiến Việt Nam. Rõ ràng cho thấy ưu thế của VNDCCH hơn hẵn về chi viện so với VNCH. Những dẫn chứng đó cũng cho thấy thực sự VNCH trong khi bị Mỹ bỏ rơi, cắt đứt viện trợ thì VNDCCH lại hoàn toàn ngược lại. Họ được tiền hô, hậu ủng từ cả khối cộng sản nhằm nhuộm đỏ Việt Nam với mức độ càng ngày càng khủng khiếp cho đến ngày 30/4/1975, ngày cả nước chính thức rơi vào vòng nô lệ chứ không còn chỉ là một miền Bắc nghèo khó nữa.
2-Chiến lược bỏ rơi VNCH của người Mỹ:
Cũng cần phải nói thêm về việc lý do thứ hai trong việc VNCH bị thất bại trong cuộc chiến chính nghĩa bảo vệ nền tự do dân chủ trước sự xâm lăng cường bạo của cộng sản. Đó là sai lầm trong chiến lược ngoại giao của Mỹ cũng như cá nhân ngoại trưởng H. Kissinger. Điều này được thể hiện qua tài liệu đã được giải mật của chính phủ Mỹ. Đó là biên bản cuộc họp tại Bắc Kinh giữa Chu Ân Lai và H. Kissinger về vấn đề Việt Nam, Châu Á ngày 20 tháng 6 năm 1972 tại Bắc kinh. Trong buổi họp này, Tiến Sĩ Henry Kissinger, Phụ Tá An Ninh của Tổng Thống Richard M. Nixon, và Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đã thảo luận nhiều vấn đề thế giới và đặc biệt là giải quyết cuộc chiến Việt Nam. Tài liệu gồm 37 trang dưới đây cho thấy sức mạnh và ảnh hưởng của các cường quốc trên thế giới. Từ trang 1 đến trang 26, Hoa Kỳ và Trung Cộng bàn thảo về tương quan giữa các quốc gia cùng an ninh toàn cầu. Đặc biệt từ trang 27 đến trang cuối, Kissinger và Chu Ân Lai bàn luận kế hoạch giải quyết vấn đề Đông Dương. Khai thác sự rạn nứt Trung – Nga năm 1969, Hoa Kỳ muốn tái lập bang giao với Trung Cộng. Bang giao với Trung Cộng sẽ giúp Hoa Kỳ chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, lấy lại hết tù binh, giải quyết những bất ổn chính trị tại Hoa Kỳ và còn được khai thác thị trường to lớn trong lục địa. Để tái thiết ngoại giao với Trung Hoa, Kissinger đã nói với Thủ Tướng họ Chu: “Nếu chúng tôi sống chung được với một chính quyền cộng sản Trung Hoa, chúng tôi sẽ chấp nhận được ở Đông Dương”. Ngoài ra Kissinger cũng gián tiếp cam kết với Chu Ân Lai Hoa Kỳ không có ý định tiêu diệt hoặc đánh bại cộng sản Bắc Việt.
Chu Ân Lai và Kissinger
Tiến Sĩ Kissinger: Đó không phải là ý định của chúng tôi. Chúng tôi không có ý định thành lập một chế độ công quản – nó đòi hỏi một hoàn cảnh khác thường để chúng tôi thực hiện điều này. Không phải là ý đồ của chúng tôi để tạo ra một chế độ công quản. Chúng tôi thực có ý định tạo dựng một bức tường ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng, dù về chính trị hay là thực thể vật chất. Điều khiến chúng tôi quan ngại nhất là khi cường quốc khai thác những xung đột địa phương cho mục đích riêng của họ.
Thủ Tướng Chu: Trong những phản đối của Nga Sô về bản thông cáo giữa chúng tôi với quí quốc hình như họ đặc biệt bày tỏ sự phản đối về nguyên tắc chung: “Không bên nào nên làm bá chủ.” Họ có nghĩ là điều đó nhắm vào họ không?
Tiến Sĩ Kissinger: Họ không nói, nhưng hình như họ nghĩ rằng điều đó có thể nhắm vào họ. Chúng tôi cho rằng nó nhắm vào những quốc gia muốn tạo chế độ công quản. Tôi có một thắc mắc lý thú từ Ấn Độ – không biết Thủ Tướng có nghĩ vậy không. Họ nói rằng khi Á Châu – Thái Bình Dương không bao gồm Ấ Độ, vậy những gì chúng tôi nói tức là chúng tôi thỏa thuận để Trung Hoa công quản Ấn Độ (cười). Nên tôi nói với họ là không đúng. Tôi mong Thủ Tướng không phật ý.
Thủ Tướng Chu: Ấn Độ là một quốc gia hết sức mập mờ. Đó là một quốc gia rất to lớn. Nhiều khi họ làm ra vẻ một quốc gia lớn, nhưng nhiều khi họ có mặc cảm tự ti.
Tiến Sĩ Kissinger: Họ bị khống chế bởi ngoại bang qua gần hết lịch sử của họ.
Thủ Tướng Chu: Vâng, đó có thể là một trong những nhân tố lịch sử. Và một nhân tố nữa là quá nhiều cạnh tranh vĩ đại trên thế giới. Bây giờ chúng ta sang tới vấn đề Đông Dương – – Tôi muốn nghe ông trình bày.
Tiến Sĩ Kissinger: Thủ Tướng có nói ông có vài nhận định muốn nói với tôi. Có lẽ chúng ta nên đổi vị trí để Thủ Tướng phát biểu trước.
Thủ Tướng Chu: Có những vấn đề cần tranh luận, và chúng tôi muốn nghe ông trước để biết giải pháp của ông cho vấn đề.
Tiến Sĩ Kissinger: Thủ Tướng muốn gợi ý là sau khi nghe tôi trình bày tôi sẽ thuyết phục được khiến mọi tranh luận sẽ biến mất, và sẽ không còn điều gì thêm để Thủ Tướng phải nhận định?
Thủ Tướng Chu: Tôi không có những dự tính đó, nhưng tôi thực sự mong sẽ giảm thiểu được những tranh luận.
Tiến Sĩ Kissinger: Tôi sẽ trình bày sự thẩm định thật vô tư của chúng tôi. Tôi biết không hợp với ý Thủ Tướng, nhưng tôi nghĩ dù sao nó cũng ích lợi để Thủ Tướng hiểu quan điểm của chúng tôi về hiện tình. Và tôi sẽ trình bày tình hình từ khi Bắc Việt bắt đầu vụ tấn công ngày 30 tháng 3. Tôi tin rằng tôi đã giải thích vói Thủ Tướng những mục tiêu tổng quát của chúng tôi ở Đông Dương. Hiển nhiên không phải mục tiêu của chính phủ này là sẽ duy trì vĩnh viễn những căn cứ tại Đông Dương hoặc tiếp tục chính sách khởi xướng bởi vị tổng trưởng ngoại giao đã từ chối bắt tay Thủ Tướng. Không phải như vậy? chúng ta đang ở một giai đoạn lịch sử khác. Chúng tôi tin rằng tương lai quan hệ của chúng tôi với Bắc Kinh quan trọng vô biên cho tương lai của Á Châu hơn là những gì xảy ra tại Phnom Penh, tại Hà Nội hoặc ở Sài gòn. Chắc Thủ Tướng còn nhớ khi Tổng Thống Johnson đưa quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam ông biện minh rằng vì một phần những gì xảy ra tại Đông Dương đã được kế hoạch tại Bắc Kinh và là một phần của âm mưu thôn tính toàn cầu. Dean Rusk đã diễn đạt như vậy trong một bản tuyên bố. Rồi quí quốc tiến hành cuộc Cách Mạng Văn Hóa và không, với những gì tôi đọc, nhấn mạnh đến phiêu lưu ra ngoại bang.
Với thực tế chúng ta đang ngồi họp trong phòng này đủ thay đổi nền tảng mục đích của cuộc can thiệp đầu tiên tại Đông Dương. Là người thừa hưởng cuộc chiến vấn đề của chúng tôi là tìm cách thanh toán nó với một phương thức không ảnh hưởng đến uy tín toàn cầu của chúng tôi và – – đây không phải là mối quan tâm chính của Thủ Tướng – – để ổn định nội bộ tại Hoa Kỳ. Nên chúng tôi đã chân thành cố gắng để chấm dứt chiến tranh, và Thủ Tướng có thể biết hoặc không biết, tôi đã đích thân khởi xướng thương lượng với Bắc Việt năm 1967 khi tôi còn ở ngoại biên của chính quyền khi không được quần chúng ưa thích, vì tôi tin rằng phải có một giải pháp chính trị để chấm dứt cuộc chiến. Rồi từ khi chúng tôi nắm chính quyền chúng tôi đã cố gắng chấm dứt cuộc chiến. Và chúng tôi hiểu, như tôi đã thưa với Thủ Tướng trước đây là, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một nhân tố vĩnh viễn trên bán đảo Đông Dương và có thể là một thực thể mạnh nhất. Và chúng tôi đã không có ý định tiêu diệt họ hoặc ngay cả đánh bại họ. Sau khi chiến tranh chấm dứt chúng tôi sẽ triệt thoái xa 12 ngàn dậm. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vẫn chỉ cách Sài gòn 300 dậm. Đó là một thực tế mà họ có vẻ không hiểu
Thủ Tướng Chu: Điều mà họ quan tâm tới là vụ gọi là Việt Nam Hóa chiến tranh của quí quốc.
Tiến Sĩ Kissinger: Nhưng họ có một sự thiếu tự tin kỳ lạ. Chúng tôi đã cố gắng làm gì? Chúng ta hãy quên “họ là bậc thầy về phân tích những điểm khác nhau nhưng quên những khái niệm toàn bộ”. Chúng tôi đã cố gắng tách rời hậu quả quân sự ra khỏi hậu quả chính trị để rút ra khỏi vùng và để những thế lực địa phương tự xếp đặt tương lai của họ. Thật rất kỳ lạ, phía Bắc Việt đã cố níu chúng tôi ở lại để chúng tôi giải quyết vấn đề chính trị cho họ. Thí dụ như ngày 30 tháng 5 vừa qua, chúng tôi đã đề nghị là chúng tôi sẽ triệt thoái tất cả lực lượng nếu có sự ngưng bắn và hoàn trả các tù binh.
Đúng là ngày 31, không phải 30. Phía Bắc Việt sẽ ở đâu ngày hôm nay nếu họ đã chấp thuận dề nghị này. Tại sao? Vì họ muốn chúng tôi lật đổ chính quyền và đặt để chính quyền của họ vào. Chúng tôi không thương lượng. Tôi cố gắng giải thích điều chúng tôi suy nghĩ.
Hậu quả thực tế của những đề nghị của chúng tôi vẫn là để chúng tôi triệt thoái. Hậu quả thực tế của những đề nghị của họ là giữ chúng tôi ở lại.
Họ có hỏi chúng tôi “có một đòi hỏi họ đưa ra mà chúng tôi đã không đáp ứng, không thể đáp ứng và sẽ không đáp ứng, dù phải trả với giá nào với những quan hệ khác”, và đó là chúng tôi lật đổ những nhân vật chúng tôi vẫn thường giao thiệp và cũng là những người tin tưởng ở chúng tôi, đã có một hành động nào đó. Đây không phải là sự ưa thích cá nhân của một nhân vật nào đó đối với những nhân vật liên hệ. Không phải vì chúng tôi muốn có một chính quyền thân Mỹ ở Sài gòn. Tại sao chúng tôi lại muốn một chính quyền thân Mỹ ở Sài gòn khi chúng tôi có thể sống với những chính quyền không thân Mỹ tại các quốc gia to lớn hơn nhiều ở Á Châu? Vì rằng một quốc gia không thể bị đòi hỏi để ràng buộc vào một hành động phản bội to lớn và coi đó như một nền tảng của chính sách đối ngoại.
Thủ Tướng Chu: Ông nói triệt thoái những lực lượng. Ông muốn nói triệt thoái toàn bộ Lục quân, Hải quân, Không quân, các căn cứ và tất cả?
Tiến Sĩ Kissinger: Năm ngoái khi tôi ở đây, Thủ Tướng đã hỏi tôi điều này. Tôi đã trình Thủ Tướng chúng tôi muốn lưu lai một số cố vấn. Rồi Thủ Tướng có nói một câu rất hay về hậu quả của cái mà Thủ Tướng gọi là “để cái đuôi ở lại.” Phần lớn do lời nói đó, chúng tôi, trong vòng một tháng, đã thay đổi đề nghị của chúng tôi nên bây giờ bao gồm luôn việc triệt thoái toàn bộ cố vấn trong những loại Thủ Tướng nêu lên bây giờ. Chúng tôi đã chuẩn bị triệt thoái tất cả lực lượng….”
Qua đoạn dịch ngắn này chúng ta có thể thấy chính phủ Mỹ và đại diện là Kissinger đã bỏ rơi VNCH theo một chính sách ngoại giao mới với Trung cộng thì việc thua thiệt của VNCH chẳng có gì là lạ. Và điều đó đã dẫn tới sự sụp đổ của VNCH mà CSVN chẳng có gì là tài giỏi như họ tự khoe khoang cả.
3-Sức mạnh quân sự nghiêng về phía CSVN:
Trong quân sự, việc vượt trội về số lượng và chất lượng vũ khí đóng góp đến 80% chiến thắng nhất là trong chiến tranh hiện đại. Điều này được thể hiện rõ qua chiến tranh Việt Nam ở giai đoạn sau năm 1973.
Có thể nói sau năm 1973 thì hiệp định Paris đã làm VNCH chịu thiệt thòi về chiến thuật khi họ phải chấp nhận để quân đội cộng sản được phép đóng quân trên đất của miền Nam. “Quân đội Mỹ và các đồng minh nước ngoài phải rút khỏi Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam được ở lại miền Nam Việt Nam, chính quyền của Tổng thống Thiệu được quyền tồn tại trong một giải pháp hòa bình, trao trả tù binh không điều kiện trong vòng 60 ngày. ” (Trích theo khung sơ bộ của hiệp đinh
Tuy nhiên ngoài ra, có một sự thật khác là ngoài việc bị cắt viện trợ, bị thiệt thòi về đất đai, chiến thuật sang năm 1973 thì quân lực VNCH thua bởi vì họ nắm thế yếu về cả số lượng người và cả tính năng vũ khí. Như vậy cái gọi là “chiến thắng mùa xuân” chỉ là giả tạo và thực chất VNCH đã thua phần lớn do bản thân họ không được trang bị tốt hơn cộng sản.
Cho đến trước 1968 thì quân lực VNCH không được trang bị súng M16 (súng trường tự động) mà chỉ được trang bị súng Carbine là súng trường bán tự động. Trong khi đó quân đội VNDCCH và cả lực lượng du kích kích miền nam của MTGPMNVN cũng được trang bị AK- 47 là súng trường tấn công tự động. Như vậy so về trang bị trước năm 1968 thì cộng sản cũng không phải là tầm thường như họ nói để nâng cao “tài năng” của quân đội VNDCCH.
Trong cuộc chiến Việt Nam khi quân lực VNCH được sự tiếp vận đầy đủ họ vẫn chiến đấu tốt và không cho phép quân đội VNDCCH tiến chiếm miền Nam. Điển hình là cuộc chiến 1968 và 1972. Như vậy họ đâu có “hèn” như cách tuyên truyền của đảng cộng sản? Hãy nhìn xem quân lực VNCH có gì trong tay so với quân đội VNDCCH.
Nói đến chiến tranh Việt Nam chúng ta phải nhìn nhận thời điểm đó chưa có vũ khí Lazer, có tên lửa Tomahaws hay các loại vũ khí điện tử như hiện nay thì việc chiếm ưu thế về lục quân có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nói thế để chung ta thấy sự thật quân lực VNCH thua thiệt thế nào so với quân đội VNDCCH. Hãy làm vài so sánh sau đây.
Về xe tăng – thiết giáp là vũ khí khá quan trọng của lục quân trong chiến tranh. Quân lực VNCH được trang bị xe tăng M41, M48, và xe thiết giáp M113, V100. Xe thiết giáp M113 và V100 là xe thiết giáp có vỏ hợp kim nhôm hoặc thép mỏng dễ bị bắn cháy bằng B40, B41 của quân đội VNDCCH. Thực chất đó là xe chiến đấu hạng nhẹ và không thể so sánh với lớp thép dầy của xe chiến đấu bộ binh hạng trung của BMP 1 và BMP2 có trong quân đội cộng sản. Đặc biệt khi đối đầu thì M113 hay V100 không có hệ thống tên lửa chống tăng như BMP do LX sản xuất nên không thể là đối thủ của BMP.
Khi nói đến xe tăng chiến đấu chủ lực thì quân lực VNCH chỉ được trang bị xe tăng hạng trung M48 và hạng nhẹ M41. So với T54-55 của quân đội VNDCCH thì xe tăng hạng nhẹ M41 không thể sánh nổi. Duy nhất chỉ có M48 có thể coi làm tạm sánh ngang với các thông số của T54-T55 như “nòng pháo của T54 là 100 còn M48 là 90″. Nhưng thực chất thì quân lực VNCH lại không có nhiều M48 để đương đầu với T54-55. Theo thống kê cho đến năm 1975 thì quân lực VNCH chỉ có 162 M48A3 còn lại 221 M41. Trong khi quân đội VNDCCH khi tấn công miền Nam năm 1975 dùng 365 xe tăng T54 (Trích” Tài liệu quân sử Việt Nam – Nhà Xuất bản QĐND Việt Nam tập 2, trang 92). Như vậy về số lượng gần tương đương nhau nhưng chất lượng theo thông số kỹ thuật của xe tăng VNCH không được bằng VNDCCH.
Bên cạnh đó, quân đội VNCH không được trang bị xe tăng lội nước chuyên nghiệp như T-59, K63, PT76 của quân đội VNDCCH được Liên Xô và Trung cộng viện trợ. Và một điều rất quan trọng đó là xe tăng của quân lực VNCH phải chống chọi với không chỉ xe tăng mà con là tên lửa chống tăng AT3, Pháo, B41, B40, DKZ… của quân đội VNDCCH. Trong khi đó quân lực VNCH chi được trang bị duy nhất M72 để chống tăng.
Nói đến chiến trường bộ binh vào giai đoạn chiến tranh Việt Nam thì pháo binh là một yếu tố quan trọng. Trên thực tế quân đội VNCH chỉ được trang bị pháo 105mm và 155 mm có tầm xa tác xạ không quá 15 km. Họ có được trang bị pháo 175mm nhưng chỉ với số lượng không đáng kể. Với số lượng chỉ có khoảng 1500 khẩu pháo có tầm bắn ngắn ngủi đó so với gần 2500 khẩu pháo 130 mm có tầm bắn 30 km thì thật là quá sức chênh lệch. Thật ra tầm bắn của 105mm, 155mm bên phía quân đôi VNCH chỉ ngang bằng so với tầm bắn của khoảng 1000 khẩu 122mm của quân đội VNDCCH. Ngoài ra quân đội VNDCCH còn được trang bị rất nhiều loại pháo và súng cối từ 80mmm, 85mm…
Quân lực VNCH có ưu thế về không quân với rất nhiều loại máy bay như UH1, A37, L19, C130, C119, A-H1, F5… nhưng phía VNDCCH bù lại có sức mạnh về phòng không cực mạnh do Liên Xô chi viện như pháo phòng không 122 mm, pháo 12, 7mmm, tên lửa SA-1, SA-2, tên lửa phòng không vác vai SA-7. Như vậy rõ ràng ưu thế không quân của VNCH đã bị giảm xuống đáng kể trước đối phương có hệ thống phòng không dày đặc và hiện đại ở thời điểm đó mà ngay cả không quân Mỹ cũng bị tổn thất nghiêm trọng. Như vậy một lần nữa ta thấy sự thật quân lực VNCH không được trang bị hiện đại như quân đội VNDCCH.
Trong một chiến tranh như chiến tranh Việt Nam, ở một thời điểm quyết định như năm 1975 mà không được tiếp liệu đầy đủ, vũ khí thua thiệt cả về Xe tăng, Pháo binh và ngang ngửa về Không quân đối đầu với Phòng không thì liệu có chiến thắng được không? Câu trả lời là gần như không thể trong khi cả số lượng con người cũng thua thiệt.
Năm 1975, theo số liệu từ hồi ký “Đại thắng mùa xuân” của Đại tướng QDNDVN Văn Tiến Dũng, toàn bộ Quân lực VNCH gồm có 1.351.000 quân, trong đó có 495.000 quân chủ lực, 475.000 quân địa phương, 381.000 quân “phòng vệ dân sự” có vũ trang, gồm 13 sư đoàn chủ lực, 18 liên đoàn biệt động quân.
Theo Walter J. Boyne, toàn bộ Quân lực Việt Nam Cộng hòa gồm có 750.000 người, trong đó 229.000 là lực lượng chiến đấu nòng cốt để chống lại gần 500.000 quân Giải phóng ở miền Nam bao gồm cả các lực lượng chính quy và du kích, trong đó có hơn 200.000 bộ đội chính quy mà hơn 80.000 quân đã ở lại miền Nam sau Hiệp định Paris.
Như vậy chúng ta có thể thấy điều gì? Đó là thực tế số quân nhân chiến đấu chủ lực của quân lực VNCH cũng không nhiều bằng số quân của quân đội VNDCCH tiến đánh miền Nam được tiếp vận đầy đủ và vũ khí khá hiện đại tại thời điểm đó.
Trong cuộc chiến tại Việt Nam CSVN còn được chi viện trực tiếp bằng chính quân lính của Trung Quốc và Liên Xô. Tác giả Địch Cường (Qiang Zhai) và Lý Hiểu Binh (Li Xiaobing) viết rằng Bắc Kinh tiếp tục hỗ trợ cho Hà Nội sau chiến tranh Đông Dương lần 1 dù viện trợ quân sự giai đoạn chiến tranh Đông dương lần 2 (1965-1975) có mục tiêu chính trị khác trước “Đỉnh điểm của sự can dự từ phía Trung Quốc vào cuộc chiến Việt Nam là năm 1967, khi tổng số lực lượng phòng không lên tới 17 sư đoàn, với 150 nghìn quân“. Ngoài ra, từ sau Chiến tranh Lạnh đã bắt đầu xuất hiện tin tức hoặc sử liệu nói về sự hiện diện của quân đội Liên Xô tại miền Bắc Việt Nam. Hồi 2008, nhân chuyện Thượng nghị sỹ John McCain ra tranh cử tổng thống Mỹ, hãng tin Nga (RIA Novosti) đưa tin một cựu phi công Liên Xô, ông Bấm Yury Trushvekin, nói chính ông là người đã bắn hạ phi cơ của ông John McCain trên bầu trời Hà Nội năm 1967. Ông Nicolai Kolesnhik, một cựu chiến binh Nga ở Việt Nam, trả lời trang web của Nga, nói từ năm 1965, ông cùng các đơn vị Liên Xô tham gia phòng thủ Bắc Việt Nam bằng tên lửa chống lại không quân Mỹ. Ông Kolesnhik cũng nói về sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô rất lớn “khoảng hai triệu USD một ngày trong suốt tất cả những năm chiến tranh” và trong đó vũ khí, khí tài chiếm số lượng lớn. “Hai nghìn xe tăng, bảy nghìn pháo và súng cối, hơn năm nghìn súng cao xạ phòng không, 158 tổ hợp tên lửa phòng không, hơn 700 máy bay, 120 máy bay trực thăng, hơn 100 tàu chiến,” . Ông cũng cho biết: “Từ tháng 7/1965 đến cuối 1974 gần 6500 nghìn sĩ quan và tướng lĩnh và hơn 4500 binh lính hạ sĩ quan của các lực lượng vũ trang Liên Xô tham gia tác chiến tại Việt Nam.
Vũ khí của Trung Cộng – Ảnh: RFA
Kết Luận:
CSVN thực chất đã không “tài giỏi” như chúng thường quảng cáo và tự “nổ” về bản thân. CSVN chỉ là những kẻ ăn may mà thôi…Họ ăn may vì họ được chi viện vượt trội trong khi VNCH lại bị cắt giảm. Họ ăn may vì người Mỹ đã đi đêm với Trung Cộng bán đứng VNCH. CSVN cũng ăn may vì họ sở hữu số quân và vũ khí vượt trội so với VNCH chỉ chú trọng vào việc phòng thủ và bảo vệ bình an của người dân Việt Nam. Ngoài ra, khi Mỹ và Đồng Minh rút quân thì Trung Cộng và Liên Xô vẫn còn quân lính, chỉ huy tham gia tác chiến tại Việt Nam. Đó là lý do giải thích vì sao CSVN đã tiến vào Miền Nam mà gần như không có trận đánh lớn nào xảy ra. Cho đến khi có trân chiến Xuân Lộc thì CSVN mới biết thật sự họ mạnh đến mức nào. Chiến thắng Xuân Lộc của quân lực VNCH đã chứng minh CSVN chẳng có gì tài giỏi mà họ đã “thắng” vì họ được đặt vào thế được thắng, phải thắng.
Nhưng những kẻ ăn may CSVN có lẽ cũng chẳng ngờ, họ chỉ chiến thắng trong một trận chiến cuối cùng ngày 30/4/1975 mà họ sẽ không thể chiến thắng trong cả cuộc chiến mà toàn thể dân tộc vẫn còn đang theo đuổi. CSVN không có chính nghĩa và họ sẽ phải thua trong cuộc chiến đối với người dân Việt Nam. Những kẻ ăn may không bao giờ ăn may mãi được !
Đặng Chí Hùng 20/03/2015
Nguồn: Thời Mới Canada

No comments:

Post a Comment