Lời Mở đầu.
Gần chín mươi triệu dân sống trên mảnh đất hình chữ S eo hẹp, lại đang bị cắt xén dần dâng cho giặc phương Bắc ! Những kẻ nắm vận mệnh quốc gia không có tài đức, lại rất đam mê quyền lực. Ðưa đến hậu quá là chúng đẩy cả dân tộc vào con đường đói nghèo cùng quẫn! Nghèo nàn về đạo đức, yếu hèn về phẩm giá con người.
Tình hình mỗi lúc thêm nghiêm trọng, đất nước đã và đang bị xâm lăng về văn hóa, về lãnh thỗ, lãnh hải.
Thiết nghĩ, không có ai quá vô tâm với đất nước mà yên lòng trước họa ngoại xâm hiện nay. Trừ bọn Mạnh, Dũng, Trọng... Giờ là lúc mỗi công dân Việt Nam cần nhìn vào sự thật. Ðó là lương tâm và trách nhiệm không thể thoái thác.
Phần III
Giá của tự do luôn luôn cao
Trần Nhu
Vài nét về Vladimirovich Putin
Năm 1998, cựu nhân viên tình báo KGB trở thành người đứng đầu Cục An Ninh Liên Bang (FSB) cơ quan kế tục KGB, Putin trở thành người đứng đầu Hội Đồng An Ninh của Tổng Thống.
Tháng 8 năm 1999, Tổng Thống Boris Yeltsin đột ngột sa thải thủ tướng Sergei Stepashin và đưa Putin lên làm Thủ Tướng mới, nhân dịp năm mới vào một ngày đẹp trời Yeltsin đưa ra tuyên bố từ chức và lập Putin thay mình làm nguyên thủ quốc gia (hoàng đế).
Putin thể hiện tài năng rất rõ ràng: Hòa nhập với những người có tiếng nói quyết định và biết cách giao lưu với nhân dân. Lời lẽ của ông không dành cho trí thức, nhưng ông biết cách ăn nói với cử tri của mình. Ông không làm cho ai khó chịu và không dừng lại ôm mãi bó hoa đã tàn héo.
Putin tốt nghiệp luật tại đại học quốc gia St Petersburg năm 1975, rất giỏi tiếng Đức, Anh và rất yêu thể thao, những người làm việc gần với Putin đều cho rằng: Ông nhanh nhẹn, nhạy cảm về chính trị, đương nhiên, ông hoàn toàn không muốn quay lại với Chủ Nghĩa Xã Hội, ông không còn mang trái tim người Cộng Sản. Nhưng đại biểu Duma quốc gia Covalop đã nói thẳng ra rằng: “Chúng ta đang sống trong đất nước mà chính quyền nằm trong tay KGB hành động như sách vở đã dạy họ. Họ tiến dần từng bước tới việc xây dựng một nhà nước cảnh sát! Trong khi đó, kiến trúc sư thuộc phong trào tư nhân hóa của Nga, Antoly Chubais làm việc tại Điện Kremlinthì nhận xét rằng: “Ông Putin có thể vừa là một người yêu nước Nga vừa là một nhà hiện đại hóa Tây Phương”.
Sau khi nói chuyện với Putin gần 3 tiếng đồng hồ, nhà ngoại giao Mỹ Madeleine Albright lưu ý rằng có “hai mạch” trong tính cách của Putin. Nhiều người khác thì nhận xét rằng: “Putin là một nhà cải tổ có tâm can, mà gần bản sắc dân tộc”.
Trong hơn một thập niên qua, nước Nga đã thực hiện quá trình chuyển đổi đầy khó khăn, thách thức từ Chủ Nghĩa Cộng Sản sang một nền dân chủ kiểu Nga, từ một nền kinh tế tập trung sang một nền kinh tế thị trường.
Nước Nga đã phải đối mặt với nhiều vấn đề cùng một lúc từ âm mưu chính biến gây bất ổn của một số đảng viên Cộng Sản, nhất là vấn đề kinh tế, xã hội và đời sống trong buổi giao thời. Từ cuộc vận hành quyền lực ở điện Kremlin, từ Gorbachov đến Yeltsin, mà nền dân chủ nước Nga có thể đã bị thui chột ngay trong trứng nước nếu như vào tháng 8 năm 1991, một cuộc nổi dậy triệt để chống lại Tổng Thống Liên Xô Mikhail Gorbachov nổ ra.
Nền dân chủ không bị bóp chết chủ yếu là nhờ Boris Yeltsin, đối thủ của Gorbachov lúc đó mới được bầu làm Tổng Thống Liên Bang Nga đã lãnh đạo mọi người chống lại những kẻ nổi dậy chống lại nhà trắng: Tổng hành dinh của chính phủ Nga.
Nhiều năm sau, tổng thống Mỹ Bill Clinton mô tả: “Thời điểm ông Yeltsin trèo lên xe tăng để bảo vệ nền tự do nước Nga là một trong những trải nhiệm đáng sợ nhất đời tôi”.
Từ một đảng viên Cộng Sản kỳ cựu, một nhà lãnh đạo, Yeltsin trở thành một trong những chiến sĩ tranh đấu dũng cảm cho tự do, có tiếng nói mạnh nhất nước Nga năm 1991. Đến Putin, cựu nhân viên tình báo KGB trở thành tổng thống nước Nga. Tại sao? Bởi vì mọi thứ trên đời có thể xẩy ra.
Nhưng người Nga, người Đức, người Tiệp v.v... họ vất bỏ Chủ Nghĩa Cộng Sản dễ dàng như thay áo, không u mê, lì lợm, cuồng tín như các nhà lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam . Hãy xem ông Putin, sau khi vứt bỏ chủ nghĩa Mác-Lenin, ông ta đã đưa nước Nga trở lại thịnh vượng, mạnh mẽ đầy sức sống, vượt qua nhiều ngọn núi.
Nhờ óc phán đoán, đánh giá sáng suốt, kết hợp với bản lĩnh chính trị ngoan cường, ông vạch ra được hướng đi khái quát, chủ đạo của các mục tiêu hướng tới, ý thức về phương hướng để đạt mục đích. Ông có công lao lớn phục hồi lại niềm tin và lòng tự hào của dân Nga, vực dậy nền kinh tế trong giai đoạn đầu của kinh tế thị trường.
X
Nhân đây ta cần so sánh ban lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam.
Gorbachov, Yeltsin, Putin họ đều là những con người thức tỉnh đầy nhiệt huyết, có bản lĩnh chính trị vững vàng và lòng quả cảm tự tin,
không như những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam , lúc nào cũng khoe khoang với công chúng, họ là những người lãnh đạo sáng suốt, tuyệt vời, đỉnh cao trí tuệ. Nhưng trên thực tế thì lại rất u tối, mù quáng, thiếu tự tin, nặng đầu óc nô lệ.
Khi đất nước hiện đang cần có những con người có tư tưởng độc lập, chủ động, có óc sáng tạo để cải tổ mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội thì họ lại cứ xem Trung Cộng làm cái gì để họ làm theo.
Nhẽ ra, khi các biến cố động trời dồn dập đang xẩy ra ở các nước Cộng Sản Đông Âu và Liên Xô như vậy, nếu tỉnh táo tự tin, những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam phải nhận thấy đây là cơ hội tốt nhất để họ thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Liên Xô,
và quan trọng hơn là xích xiềng của Trung Cộng, xóa bỏ hẳn mọi tàn tích của tư tưởng Mao Trạch Đông, và cũng khỏi phải lo ai tranh quyền, cướp ngôi nổi với họ, khi họ đứng về phía dân tộc, đặt tổ quốc lên trên hết.
Nhưng rất đáng tiếc, họ không làm gì, mà cứ một mực bám đít quan thầy Trung Cộng, loại bỏ, trừ khử các đồng chí có tư tưởng cấp tiến như Trần Xuân Bách, Hoàng Minh Chính, Trần Độ v.v...
Họ sợ mất đảng, mất quyền lợi, họ không muốn thay đổi, họ chỉ quan tâm đến quyền lợi của họ để duy trì quyền lực đó.
Điều cần thiết là mọi người cứ quên lãng những sự thật đã và đang diễn ra, ngay cả sự thật của chính cuộc sống của họ. Do đó, những gì chung quanh họ là những bức tường dối trá.
Những cái nguy hiểm nhất cho đất nước là họ cứ bám chặt vào kẻ thù truyền kiếp là Trung Cộng,
như tôi đã nêu trong “Bức giác thư gửi các vị tướng lãnh và anh em binh sĩ trong quân đội Nhân Dân” hồi năm 2006.
Mặc dù đảng Cộng Sản Việt Nam bị Bắc Kinh cho ăn đòn nhiều lần, mà chứng nào tật ấy vẫn cứ cố gắng bám đuôi quan thầy thành một truyền thống nô lệ, lấy chủ trương đường lối của Trung Quốc làm mẫu mực, xem “Hồi Ký của Đào Duy Thành”. Ủy Viên BCT đảng Cộng Sản cũng là một minh họa hết sức chính xác về sự lệ thuộc của đảng Cộng Sản VN với Trung Cộng. Xin tạm trích dẫn một đoạn trong chương “Đi Sứ Trung Quốc” của Thành: “Tháng 1/1991, tôi và anh Vũ Oanh được cử sang Trung Quốc nghiên cứu tình hình kinh tế chính trị Trung Quốc, đồng chí Vũ Oanh làm Trưởng Đoàn, tôi làm phó đoàn, đoàn còn có đồng chí Vũ Quang, đồng chí Lê Quí An và một phiên dịch cấp vụ trưởng của Ban Đối ngoại trung ương. Đoàn chúng tôi sang Trung Quốc trong tình hình hai nước chưa bình thường quan hệ ngoại giao. Mới có cuộc gặp gỡ trước ở Trùng Khánh giữa các đồng chí Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, Cố Vấn Phạm Văn Đồng, thủ tướng Đỗ Mười với các đồng chí Giang Trạch Dân, Lý Bằng của Trung Quốc. Trong chuyến đi này còn có đồng chí Đinh Nho Liêm, thứ trưởng bộ ngoại giao cùng đi. Khi về đồng chí Đinh Nho Liêm có chép hai câu thơ trong bữa tiệc tiếp đoàn Việt Nam, do đồng chí Giang Trạch Dân đọc là:
Độ tân khiếp ba huynh đệ lại.
Tương phùng nhất tiểu dẫn ân cừu thù.
Nghĩa là: Đò qua hết sóng dữ anh em vẫn là anh em.
Gặp nhau cười một tiếng là trôi hết hận!! (...)”
Ở một đoạn khác Thành viết: “Đoàn chúng tôi được đón tiếp trọng thể ở tại nhà khách Điều Ngự đài một tuần, nghiên cứu và nghe các chuyên gia đầu ngành và cán bộ cao cấp của Trung Quốc giới thiệu về kinh nghiệm cải cách, mở cửa của Trung Quốc”.
Những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam không mở rộng tầm nhìn của mình khỏi những ý tưởng tù túng của Bắc Kinh, để nắm bắt được những tinh hoa của nhân loại, mà cứ chúi đầu vào học tập Trung Quốc.
Hầu hết các lãnh tụ đảng thời gian này đều sang chầu Bắc triều.Trong đó có chuyến đi xứ của đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 20 tháng 9 năm 1989 là ê chề nhục nhã nhất, tướng Giáp bị Lê Đức Thọ ép buộc phải đi cầu hòa với Tầu.
Vì liên lụy với mấy đứa con Võ thị Hồng Anh mới qua Mỹ, Võ thị Hòa Bình ở Ba Lan, Võ Điện Biên ở Đức, ông sợ mật vụ của Thọ ám hại các con ông, nếu không làm theo ý của Thọ.
Nói tóm lại, các lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam, từ Hồ Chí Minh đến tận lúc này, đối với Bắc Triều vẫn bằng một thái độ kính cẩn nghiêm túc.
Họ khác xa các lãnh tụ, các đảng Cộng Sản ở Đông Âu, họ tự tin và có tinh thần độc lập. Tôi xin dẫn ra đây một số thí dụ điển hình nữa ở Romania chẳng hạn, một nước rất nhỏ chỉ có vài triệu dân, những nhà lãnh đạo rất tự chủ, họ không chịu lệ thuộc vào đảng Cộng Sản Liên Xô.
- Ngày 22-4-1964, tại Đông Âu, Đảng Cộng Sản Romania tuyên bố bình đẳng và độc lập hoàn toàn giữa các đảng Cộng Sản và các quốc gia. Yêu cầu không can thiệp vào chương trình công nghiệp hóa của Romania
. Chính quyền Cộng Sản Romania từ chối ủng hộ Liên Xô trong việc tranh chấp với Trung Quốc. Romania cũng chủ động tiến hành đàm phán kinh tế với Mỹ, Pháp và các nước tư bản khác.
- Ngày 1-3-1965 , thủ tướng Gheorghiu-Dej qua đời, Nicolae Ceaucescu lên thay. Ông trở thành chủ tịch hội đồng nhà nước tiếp tục chính sách kiểm soát nội bộ chủ động đối ngoại quốc tế. Không chịu phụ thuộc vào Liên Xô.
- Ngày 10 và 13-5-1966 , Bí thư đảng Cộng Sản Liên Xô Leonid Brezhnev sang thăm Romania . Nhưng Ceaucescu vẫn giữ vững lập trường của đảng Cộng Sản Romania, còn đề nghị Liên Xô rút quân đội ra khỏi Ba Lan, Đông Đức và Hungary, Romania thường xuyên phản đối các cuộc tập trận của khối Warsaw trên lãnh thổ nước này.
- Năm 1967 Romania lập quan hệ ngoại giao với Tây Đức. Tháng 8-1968 chỉ một mình Romania trong số các nước thuộc khối WarSaw không cho quân đội tiến vào Tiệp Khắc. Bất chấp cả sự đe dọa của Liên Xô.
- Ngày 2 và 3-8-1996 , Tổng thống Mỹ Richard Nixon thăm Bucharest . Sau đó Ceaucescu sang thăm Mỹ.
- Ngày 5-12, ông chính thức thăm Mỹ và ký hiệp định hợp tác kinh tế, tháng 8-1975 Romania được quy chế tối huệ quốc trong thương mại với Hoa Kỳ.
- Tháng 3-1988, Ceaucescu đưa ra chính sách giải tán khoảng 8.000 ngôi làng, buộc nhân dân phải định cư trong các “trung tâm nông nghiệp”. Đây là một sai lầm lớn nhất của ông. Và sai lầm thứ hai là cuộc đụng độ của những người biểu tình và chính quyền Ceaucescu đã dẫn đến bạo động ở Timisoara và Bucharest trở thành cuộc nội chiến ngắn nhưng đẫm máu. Cuộc nội chiến kết thúc bằng việc hành hình vợ chồng Ceaucescu ngày 25-12.
Mặc dù Ceaucescu là nhà độc tài Cộng Sản, nhưng không như Hồ Chí Minh, ông ta tự chủ hoàn toàn trong chủ trương đối nội cũng như đối ngoại, không lệ thuộc vào Liên Xô hay Trung Cộng .
Lại nữa ở Nam Tư, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Tito nhiều lần tuyên bố các quyền lợi riêng của Nam Tư, ông không lệ thuộc vào bất kỳ một thế lực nào. Bất chấp cả Stalin chúa tể của các đảng Cộng Sản Quốc Tế thời đó, Tito vẫn hiên ngang, tự tin, tự chủ trong việc đối nội cũng như đối ngoại của Nam Tư.
- Ngày 18-3-1948 , để gây sức ép, Liên Xô rút toàn bộ chuyên gia kỹ thuật và quân sự ra khỏi Nam Tư.
- Ngày 28-6, khối Cominform khai trừ Nam Tư ra khỏi khối.
- Ngày 6-7-1949 các nước Cộng Sản Đông Âu do Liên Xô lãnh đạo cắt đứt mọi quan hệ kinh tế với Nam Tư. Không một chút nao núng và để đáp lại, Tito ký hàng loạt hiệp định kinh tế với các nước Tây Phương và Mỹ. (Những nhà lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam cần lưu ý những điểm này.)
Còn nhiều bài học sáng giá như ông Rualf Slansky, Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Tiệp Khắc đã tán thành bản tuyên bố của Tito và muốn đảng Cộng Sản Tiệp cũng thực hiện chính sách độc lập, tự chủ. Do đó, ông và 10 Ủy viên trung ương đảng Cộng Sản Tiệp Khắc đã bị thanh trừng, treo cổ.
Cuộc hành hình diễn ra ngày 2 tháng 12 năm 1952. Đây có lẽ là chính sách ưu việt nhất của chủ nghĩa Cộng Sản ở các nước anh em mà điện Kremlin đã dùng đủ mọi thủ đoạn thâm độc, đê hèn, nhưng vẫn không sao ngăn được những nhà lãnh đạo đảng Cộng Sản Tiệp. Họ tiếp tục chống lại sự chiếm đóng của quân đội Liên Xô. Do đó, ngày 3 và 4 tháng 10 năm 1968, các nhà lãnh đạo Tiệp được triệu tới Moscow bị buộc phải cam kết từ bỏ các cải cách và chấp nhận việc chiếm đóng “tạm thời” của Liên Xô.
Để giữ phẩm cách con người và lòng tự trọng ngày 25 tháng 11 chủ tịch nhà nước Novony từ chức. Ông cũng quăng luôn cả chức Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản. Đến Deebeek lên thay, lại vẫn cứ chống Liên Xô và quyết định mở rộng tự do. Vì vậy mới có chuyện ngày 27 tháng 6 năm ấy, giới báo chí phê phán chính sách của đảng Cộng Sản Tiệp Khắc trong một bức thư công khai mang tên “Hai ngàn từ”.
Tháng 7, Liên Xô lại tăng sức ép với Tổng Bí Thư Deebeek, nhằm kiểm soát các xu hướng tự do hóa trong chế độ của ông, Deebeek thẳng thừng khước từ và không nhận lời mời tham dự hội nghị ở Moscow .
Trong khi đó, Liên Xô thông báo nhiệm vụ của toàn thể bộ chính trị Liên Xô, giao cho Praha (22-7) cùng lúc quân đội Liên Xô tập trung dọc biên giới Tiệp Khắc để tập trận.
- Ngày 23-7, Bộ chính trị Liên Xô đến thị trấn biên giới Gierna, thị sát cuộc tập trận...
- Ngày 28-9-1969 Deebeek bị đưa ra khỏi chủ tịch đoàn và bị buộc phải từ chức, nhưng ai cũng bảo Deebeek là con người trung thực, có khí phách. Trong ban lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam từ ngày thành lập có khuôn mặt nào đáng được đứng gần Novotny và Deebeek không? Còn rất nhiều mẫu người lãnh đạo, có cái hùng khí của một chính trị gia Nagy trong thời cận đại, dù họ là lãnh tụ đảng Cộng Sản. Như Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Ba Lan Gomulka nhất định không theo đường lối của Liên Xô. Do đó ông và 10 ủy viên trung ương đảng Cộng Sản Ba Lan đã bị bắt năm 1951.
Xem lịch sử các Đảng Cộng Sản Đông Âu và Liên Xô, tôi nhận thấy có nhiều nhà lãnh đạo đảng Cộng Sản họ luôn luôn đặt quyền lợi dân tộc và tổ quốc của họ lên trên. Họ tự chủ trong nhiều vấn đề, đối nội cũng như đối ngoại không như những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam luôn luôn đặt quyền lợi của đảng lên trên quyền lợi dân tộc.
Điều tệ hại hơn nữa là họ không tự đứng một mình được, cứ phải nương dựa vào Liên Xô hay Trung Cộng. Họ đánh mất tính tự chủ và khả năng sáng tạo bị kìm chế, vì họ luôn luôn phải hỏi ý kiến những nhà lãnh đạo ở điện Kremlin hoặc Bắc Kinh, họ để người khác quyết định vận mệnh dân tộc của họ. Và họ tuân theo ngoại bang bao nhiêu thập niên qua; họ cứ lệ thuộc vào ngoại bang. Khi thì Liên Xô, khi thì Trung Cộng. Họ không biểu thị được phẩm cách của một người lãnh đạo quốc gia.
Về văn hóa dân tộc, ngay cả ông Hồ Chí Minh là biểu tượng cao nhất của truyền thống Cộng Sản VN cũng rất nặng đầu óc nô lệ.
Trong khi đó nhân dân Việt Nam vẫn lầm tưởng ông Hồ lãnh đạo đất nước. Không ai biết rằng trong các ngành, các bộ đều do cố vấn Tầu chỉ đạo. Cái nguy hiểm hơn nữa là ông Hồ thường xuyên trình diễn vở tuồng ái quốc trước quốc dân.
Và cho bọn bồi bút không ngớt lời ca tụng tấm lòng vì nước, vì non của ông để mê hoặc nhân dân và chiêu dụ những trí thức yêu nước trong và ở hải ngoại về theo ông như giáo sư Trần Đức Thảo, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện ở Pháp, Kỹ sư Trần Đại Nghĩa ở Đức v.v..., hàng trăm trí thức ưu tú trong và ngoài nước có tâm huyết với đất nước đều bị mắc bẫy ôm hận xuống mồ!
Vì những lời nói quá khôn ngoan, mà cái khôn ngoan của ông cha ta xưa khác với “trí xảo” của họ Hồ “giả cùi tốt mã”, đi làm trò hề giả ái quốc quyến rũ đồng bào, nhưng lại làm tay sai luồn cúi ngoại bang, trong khi đó với các đảng phái quốc gia thì hèn nhát “bắt cóc, bắn lén, chặt đầu..” qua thời kỳ kháng chiến chống pháp ta đủ hiểu phẩm chất của y,đối với kẻ thù thì dâng đất làm tôi tớ mà kiêu hãnh tự tôn!
Những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam thời ấy, ai cũng biết sự lộng hành quá đáng của những viên cố vấn Tầu, bỉ mặt ươn hèn của Hồ Chí Minh. Nhưng vì quyền lợi, họ cứ giả vờ quên những sự thực phũ phàng ấy và vẫn tiếp tục suy tôn Hồ Chí Minh, một con điếm già sống với trò đạo đức giả quá lâu!
Những chuyện thâm cung bí sử chỉ những người trong cuộc mới biết. Những sự thật diễn ra trong nội tình đảng Cộng Sản Việt Nam mà chúng ta biết được phần lớn là do những cán bộ cao cấp của đảng như ông Hoàng Tùng, Nguyễn Văn Trấn, Đào Duy Thành, Hồng Hà v.v...
Để làm sáng tỏ sự lộng hành của cố vấn Trung Cộng đối với những nhà lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam , chúng tôi trích dẫn một đoạn hồi ký “Mặt Thật” của Đại Tá Bùi Tín, nguyên Phó chủ nhiệm báo Nhân Dân cơ quan ngôn luận của Đảng, chương viết về Cải Cách Ruộng Đất:
“Các đồng chí cố vấn Trung Quốc chỉ đạo Cải Cách Ruộng Đất tạo nên một bộ máy hoàn toàn mới gồm những thành phần trung kiên, cốt cán và rèn luyện tổ chức cuộc đấu tranh long trời lở đất. Họ chỉ huy bộ máy chính quyền từ trung ương đến các địa phương: đồng chí Triết, đồng chí Triệu, đồng chí Vương, cho công thức, phương pháp xử dụng, không một ý kiến nào của cán bộ Việt nào được trình bày để các đồng chí tham khảo (...)
Những phái viên kiệt xuất của Mao Chủ tịch là những ông chủ thật sự của Cải Cách Ruộng Đất, đó là đồng chí Triết, đồng chí Triệu, đồng chí Vương... mà mỗi lời “phán bảo, gợi ý đề xuất được coi như là mệnh lệnh, là chỉ thị của Mao Chủ Tịch vĩ đại. Điều lệ đảng đã ghi lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm nền tảng thì dù có điều gì các học trò Việt Nam cảm thấy là lạ, kỳ kỳ, thậm chí vô lý cũng cứ phải cúi đầu vâng dạ mà chấp hành cho sớm. Những học trò ấy trước hết là ai? Là ông Trường Chinh, Tổng Bí Thư của Đảng, đảm nhận chức trưởng ban chỉ đạo Cải Cách Ruộng Đất! Là ông Hoàng Quốc Việt ủy viên thường vụ trung ương đảng, trưởng ban chỉ đạo thí điểm Cải Cách Ruộng Đất ở Thái Nguyên; là ông Lê Văn Lương, Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng kiêm trưởng ban chỉ đạo chỉnh đốn tổ chức mà thí điểm ở Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, là ông Hồ Viết Thắng...
Mỗi vị “học trò” này gặp đoàn phái viên quý báu của Mao chủ tịch về Ty cải cỏ, (thổ địa cải cách) theo tiếng Bắc Kinh, họ chỉ có thái độ tiếp nhận ý kiến của chuyên gia. Không dám hỏi lại cũng không dám cãi lại! (Ở miền Nam Việt Nam mà VC tuyên truyền là tay sai của đế quốc Mỹ, nhưng nhiều cố vấn Mỹ cứ bị sĩ quan Việt Nam cho ăn bạt tai khi tỏ ra hách dịch.)
Anh bạn tôi làm ở văn phòng Ban chỉ đạo hồi ấy (năm 1954-1956) kể lại: Triết cố vấn, Triệu cố vấn và Vương cố vấn chuyên ngồi dựa vào ghế bành lớn, ưỡn bụng ra phía trước. Có lúc gác đại cả hai chân lên bàn, tay cầm ly rượu Mao đài, nhổ nước bọt ồn ào xuống thảm đỏ để phán bảo cho những người nắm vận mệnh của đất nước Việt Nam thì thật là thê thảm cho đất nước này”.
Ông Bùi Tín đã đẩy người đọc vào một tâm trạng đau đớn mà nhờm tởm. Bởi vì nó đốn mạt, ươn hèn và tồi tệ nhất trong suốt dòng lịch sử dài mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam . Không có một triều đại nào, không có một bọn tay sai bán nước nào. Kể cả Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống lại đê hèn, mù quáng, sùng bái Bắc triều tới mức không còn ra thể thống con người đến thế!
Mà Hồ Chí Minh đã tạo ra cái khuôn mẫu cho các cán bộ lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam noi theo. Về điểm này ông Bùi Tín cũng có nhận xét rất xác đáng, ông viết:
“Sùng bái mặt trời phương đông “nể sợ” thiên triều” Bắc Kinh. Ông Hồ đã truyền cho những người lãnh đạo khác quanh ông. Cho đảng Cộng Sản một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ. Chính ông cũng bị cỗ xe Mac Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông đè lên đầu, trong khi cả đảng Cộng Sản và xã hội bị cỗ xe ấy nghiền nát”.
Nhưng lạ làm sao? Cho đến bây giờ họ vẫn hô hào: “Toàn Đảng, toàn dân đoàn kết, tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa theo con đường Bác Hồ đã lựa chọn”.
Cái ghê hơn nữa, là Cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu còn khẳng quyết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường đảng và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI”.
Nghe mà phát hoảng... nó lạc lõng làm sao, trong thế giới hiện thực này, nhưng dưới cái loa sắt, Đảng vẫn cứ lập đi lập lại cái giọng điệu ấy. Không để làm gì cả, không một ai tin cả mà nó làm cho họ khó chịu.
Và không khỏi đau lòng về cái tư tưởng làm chó săn cho ngoại bang, lừa dối nhân dân, lừa dối lịch sử của Hồ Chí Minh đã làm cho nhiều thế hệ đổ máu vô ích.
Hàng ngàn trái tim nhân hậu, trung hiếu với tổ quốc bị lừa gạt, hàng ngàn vạn những chàng trai, cô gái, anh tuấn, mơ mộng như Dương Thu Hương, Đặng Thùy Trâm, Bùi Minh Quốc, Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong v.v... Những trái tim trong trắng như những bông sen, đẹp như thiên thần, yêu nước, bị bác đảng dối gạt, phản bội!
Nhà thơ Bùi Minh Quốc viết trên Talawas: “Tôi người may mắn sống sót sau những hy sinh của Dương Thị Xuân Quý, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Giá, Chu Cẩm Phong cùng hàng triệu đồng bào của tôi từ năm 1975 trở đi càng ngày càng nhận thấy nhân dân tôi đã lâm vào một bi kịch thê thảm nhất, cay đắng nhất, quái gở nhất. Vì độc lập tự do mà cuồng nhiệt tự nguyện dốc cả sông máu núi xương để rồi “tự do” tự nguyện choàng lên cổ mình một ách nô lệ “vàng son” mang tên là sự lãnh đạo của đảng!”
“Vì độc lập tự do” viễn ảnh của mơ ước mà bao thế hệ trẻ gởi gắm vào đó một thế giới hạnh phúc, sung sướng hoàn toàn. Đó chính là thế hệ của Lê Đạt, Phùng Quán, Phùng Cung, Trần Dần, Hoàng Cầm... Thế hệ trước Bùi Minh Quốc, Nguyễn Duy, Dương Thu Hương, Đặng Thùy Trâm v.v.. thế hệ sau, những tâm hồn ôm ấp những lý tưởng đẹp, những hoài bão lớn.
Nhưng giờ đây đang trải qua những năm tháng tuyệt vọng, đầy cay đắng, trái với mọi đường mơ ước! Một đại thảm kịch ở đó là mọi cửa ngõ đất nước đóng kín từ (1954-1975). Cả dân tộc bị cầm tù trong một thế giới chết ngưng đọng hoàn toàn, phí thời gian. Kín mít về không gian, mà nhà thơ Bùi Minh Quốc cho là “quái gở nhất”. Thật sự là như thế!
Ôi! Đời người ngắn ngủi với bao nhiêu rình rập, với bao nhiêu mối lo... với bao nhiêu đe dọa thường trực... Thành ra vườn Lạc Uyển (thiên đường Cộng Sản ) mà tuổi trẻ được Bác Đảng lãnh đạo vươn tới là một địa ngục trần ai!
Và xã hội chủ nghĩa, con đường quanh co dài dằng dặc là những cuộc hành trình xuống âm phủ. Ở những nơi sâu thẳm, đêm đen, đói và khát, mà xã hội bị thống trị bởi một bọn cướp, đê tiện, giả dối, kiêu ngạo, tham lam, hay nghi ngờ và thích trả thù, đào mồ mả người chết.
Dân chúng “Sống như sâu bọ” chiến đấu, lao động, rồi chết! Không có sự che chở của pháp luật. Còn “tự do” là một thứ xa hoa giả trá, hãm hại bao nhiêu thế hệ. Đọc hồi ký của Đặng Thùy Trâm, tôi nghẹn lời, lưỡi khô trong miệng.
Tiếc rằng cô đã từ giã cõi đời! Đây là một tổn thất lớn cho những người thân yêu của cô và cũng là sự mất mát đối với văn giới Việt Nam . Nếu còn trái tim chính trực ấy sẽ là Hỏa Diệm Sơn thiêu cháy đám sâu bọ trong bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam và chống lại mọi sự áp bức.
Câu chuyện xúc động về cuốn nhật ký trong chiến tranh cách đây 35 năm của Đặng Thùy Trâm đã được báo chí trong nước đặc biệt chú ý. Nhà cầm quyền Việt Nam đang lúc khủng hoảng niềm tin với nhân dân, họ đã nắm lấy cơ hội ngàn vàng này để tuyên truyền, biến hóa Đặng Thùy Trâm thành một nữ thánh của cuộc chiến chống Mỹ.
Sau mấy tháng làm trò ảo thuật khuấy động ở trong nước, cuối tháng Giêng 2006, cơn sốt nhật ký Đặng Thùy Trâm đã lan sang tới Mỹ quốc, gây chấn động không chỉ trong đời sống văn hóa Hoa Kỳ mà nó còn là một mối quan tâm của các chính trị gia. Một tuần trước khi bản Anh ngữ chính thức được phát hành, Tòa Bạch Ốc đã xác nhận kế hoạch đặt mua trước 500.000 cuốn sách để làm “cẩm nang cho lính Mỹ”.
Hình tượng Đặng Thùy Trâm thể hiện đầy đủ phẩm chất con người thời đại văn minh, mặc dù cô mơ ước một thiên đàng Cộng Sản, và chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Cộng Sản như Dương Thu Hương, Bùi Minh Quốc, Trần Duy... nhưng vẫn là mẫu người hùng, dũng cảm chiến đấu.
Xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, cho nên giá trị thẩm mỹ của hình tượng làm cho bài ca nhân đạo ngân vang thắm đậm tình người không biên giới.
Tiếc thay! Đặng Thùy Trâm chết sớm! Nên không có dịp chứng kiến một đất nước hòa bình trong máu và nước mắt, trong ly tán, tan hoang! Chứ không phải trong nụ cười đoàn viên dân tộc mà cô hằng mơ ước.
Cô Trâm ơi! Tuổi trẻ bao nhiêu thập niên qua bị vắt kiệt, héo khô, teo tóp trong các trại tập trung, hoặc công trường nhà máy, trên rừng hoang hay dưới đồng ruộng sình lầy, tuổi trẻ bị cắt rời thành cơ man ngàn mảnh đời trong hiện tại ở khắp nơi trên mặt địa cầu.
Cảnh người Việt tha hương làm nô lệ, làm điếm, nạn buôn người nhan nhản, các thiếu nữ trẻ bị buôn làm gái mãi dâm sang Campuchia, Đài Loan, Đại Lục, Singapore và khắp Đông Nam Á. Ở đâu cũng lồ lộ nỗi cùng khốn và tủi nhục!
Cô Trâm ơi! Vì ai?
Một đất nước có trên 4000 ngàn năm văn hiến, một dân tộc hào hùng trở thành “hạ đẳng”.
Dẫn đầu bởi tệ nạn buôn bán nô lệ và buôn bán phụ nữ, hai bộ mặt thật nổi của nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ngày nay. Những người mong mỏi được ra nước ngoài lao động bằng bất kỳ một giá nào, với bất kỳ một nghề đê tiện nào, miễn sao ra khỏi cái đất nước quái đản này.
Với chút hy vọng kiếm được chút tiền để gửi về nuôi gia đình. Những cô gái buộc phải làm nghề mãi dâm vì đó là cách duy nhất kiếm tiền trong xã hội mà đồng tiền là trên hết. Còn những cô gái muốn lấy chồng Tầu, Đài Loan , Singapore , Đại Hàn...?
Vì tuyệt vọng trên quê hương, các cô gái này đến một nơi hy vọng có một người chồng ngoại quốc, bất kể ngoại nhân đó ra sao... thỏa mãn bất cứ yêu cầu nào của ngoại nhân.
Chúng ta không khỏi tủi hổ và đau lòng khi thấy các diễn đàn báo chí, internet trong và ngoài nước cho phát hình 193 phụ nữ trẻ Việt Nam cởi chuồng trước mặt mấy ngoại nhân Đại Hàn, ở khách sạn Thái Bình, Quận 5, thuộc thành phố mang tên Hồ Chí Minh, đầu tháng 2-2006 và những năm gần đây để cầu may trúng số vớ được một người chồng ngoại quốc, kết quả là không ai trúng!
Trên thế giới này, có phụ nữ nước nào bị coi rẻ mạt như phụ nữ Việt Nam không?
Đây là điều tủi hổ cho dân tộc Việt Nam ! Vì sao các cô gái trẻ này lại không còn màng gì đến, lễ giáo, đạo đức, danh dự, dân tộc, không nghĩ mình là con cháu bà Trưng, bà Triệu kiêu hùng?
Ai cũng có thể hiểu “chính sách giáo dục nền tảng của dân trí” mà ngay bản chất của chế độ, từ lúc khởi đầu đã chủ trương phá hủy triệt tiêu nền văn hiến, văn hóa dân tộc. Bằng chính sách “đấu tranh giai cấp” nhập cảng của ngoại bang..., tấn công vào “gia đình” nhắm vào nền luân lý truyền thống, chà đạp, giẫm nát, từ một xã hội tương đối lành mạnh trở thành tàn tạ, nay suy đồi sụp đổ là lẽ đương nhiên.
Từ năm 1954 là một chuỗi lịch sử liên hoàn có tính cách nhân quả liên tục dẫn đến cuộc chiến tranh ý thức hệ. Đất nước bị dìm trong cuộc chiến nồi da xáo thịt. 10 triệu người hy sinh cho chiêu bài Chủ Nghĩa Xã Hội!
Hàng mấy triệu người tàn tật, hàng triệu gia đình có con em chết trận không được nâng đỡ! Số phận đông đảo binh sĩ tử vong hay tàn tật thuộc miền Nam bị sỉ nhục, mồ mả bị san bằng!
Đây là một truyền thống của nhà cầm quyền Cộng Sản.
Ở cả miền Bắc, sau Cải Cách Ruộng Đất, họ đã mở nhiều chiến dịch đào mồ mả Tổ Tiên. (Xem bài viết của Võ Văn Trực, cán bộ văn hóa tỉnh Nghệ Tĩnh báo “Văn Nghệ 1978) Đối với những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam , Tổ Tiên họ xem thường nhưng lại sùng bái ngoại nhân Mác-Mao như thần thánh!
Ta không khỏi đau lòng cho những người lãnh đạo đảng Cộng Sản VN mù quáng lầm lạc suốt cả cuộc đời. Điển hình là Hồ Chí Minh đến lúc sắp trút hơi thở cuối cùng vẫn còn tin tưởng sai lạc và một lòng quy ngưỡng Mác Lenin, quên cả Tổ Tiên!
Đức Phật dậy: “Cái khổ nhất của con người là vô minh. Cái khổ của lạc đà, của cừu, ngựa chở nặng mãn kiếp, cái khổ trôi lăn trong tam giới chưa gọi rằng khổ. Ngu si, không trí tuệ, tin tưởng sai lạc, không biết hướng đi, cái ấy mới thật là khổ!”
Văn kiện đại hội X của Đảng Cộng Sản VN, vẫn tiếp tục con đường “tìm lông rùa, sừng thỏ”: là “Kiên trì với mục tiêu: lý tưởng Chủ Nghĩa Xã Hội, kiên trì với chủ nghĩa: Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng”.
Hãy nhìn xem ở đâu hòa bình và sự phồn thịnh đang dồi dào? Đó là các quốc gia tự do ngự trị, nơi mà cuộc sống của con người theo luật pháp và được luật pháp bảo đảm tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do bầu cử và ứng cử...
Hãy nhìn xem ở đâu sự bất công và nghèo đói khốn cùng đang ngự trị? Đó là những quốc gia độc tài ngự trị. Nơi mà cuộc sống của con người không được luật pháp bảo đảm, nơi mà quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng không được luật pháp tôn trọng.
Đảng Cộng Sản Việt Nam theo những nguyên tắc phản lại mọi sự tiến bộ của nhân loại một cách trắng trợn nhất. Họ dùng quyền lực làm vũ khí đàn áp tự do của nhân dân.
Cho một đảng độc quyền kiểm soát quân đội, chính quyền, ngoại giao, ngân sách quốc gia. Độc quyền đặt những khoản thu nhập khổng lồ của đất nước vào tay một nhóm người. Họ chỉ làm hủy hoại đất nước mình thôi!
Họ tồn tại nhờ bạo lực, và sự an toàn cho chính họ, cũng là hành động vô nhân đạo, sỉ nhục và hết sức phi lý!
Phần IV
Giá của tự do luôn luôn cao
Trần Nhu
Hỡi những người Việt Nam!
Thế giới đang trên đà bước tới dân chủ và phát triển hướng tới các nghị trường tự do. Dân tộc ta hiện đang bị một nhóm người lãnh đạo đảng Cộng Sản cản đường. Vậy mỗi công dân phải nhận thức phần trách nhiệm của mình, vì quyền tự do và công lý.
Tại sao nhân dân các quốc gia Đông Âu đã tranh đấu can đảm và chỉ trong một thời gian họ đã làm cho các chế độ Cộng Sản hoàn toàn sụp đổ, còn dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống anh hùng, có tinh thần yêu nước cao, mà cho đến ngày nay vẫn chưa bứt được xích xiềng Cộng Sản.
Vấn đề này tất có nguyên nhân sâu xa. Tôi cũng đã đề cập đến một phần trong tác phẩm “Tinh Thần Phật Giáo Nhập Thế”, Chương II nói về chế độ Hồ Chí Minh.
Những nét phản ảnh khái quát mang tính chất triết lý như: “u tối” tương ứng với “tàn bạo”, văn minh tương ứng với “trí tuệ”, nền dân chủ tương ứng với kiến thức khoa học nhân văn. Chủ nghĩa Mác-Lenin chế độ Cộng Sản kiểu Stalin, Mao trạch Đông, Kim Nhật Thành, Hồ Chí Minh tương ứng với xã hội phong kiến lạc hậu.
Chính vì sự hụt hẫng kiến thức ấy đã xô đẩy họ vào con đường chuyên chế tàn bạo, chế độ Cộng Sản hà khắc hơn ở cái xứ kém mở mang, trình độ dân trí thấp, lạc hậu, nghèo đói thất học.
Xét về đại thể giữa trình độ phát triển và trình độ dân trí như Ba Lan, Đức, Tiệp Khắc chẳng hạn, so với Cộng Sản Tầu, Bắc Hàn, Việt Nam... thì ở Ba Lan, Đức, Tiệp Khắc có một truyền thống tranh đấu cho tự do trong lòng dân chúng. Và nền kinh tế cũng mở mang sớm, tân tiến hơn. Vì thế ít hà khắc (...)
Những yếu tố trên tạo thành căn bản xã hội. Ngoài ra, ở Miền Bắc Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng Sản VN chuyên xử dụng một thứ bảo bối “nắm thật chặt bao tử của người dân”. Với chính sách quản lý và phân phối lương thực, theo tem phiếu gạo, ngô khoai.
Cấp cho từng người đủ cho dân cầm hơi, song song với guồng máy trấn áp thường trực liên tục. Dân đói ăn lâu năm, làm cho tinh thần kiệt quệ, thể xác suy nhược, mất hết nhuệ khí đấu tranh.
Và nỗi sợ hãi “bị cúp khẩu phần ăn”, nghiền nát tâm can con người và trở thành con sên, con giun, con dế!!
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã dùng chính sách “nắm bao tử” để biến một dân tộc có dòng máu kiêu hùng trở thành đàn cừu ốm đói được đảng chăn dắt theo đó mà sinh sống, ngoan ngoãn theo sự lãnh đạo của đảng một thời gian dài bị “thuần hóa” tới mức mất hết khả năng phản kháng.
Ôi! Một dân tộc mà trong suốt chiều dài lịch sử hơn bốn ngàn năm, bọn phong kiến Phương Bắc không khuất phục được bằng vũ lực với bao nhiêu cuộc chinh chiến và cả một ngàn năm đô hộ, đến trăm năm cai trị của thực dân Pháp, không khuất phục được! Nhưng lại bị “bát cơm manh áo” đánh gục làm cho sa sút tinh thần không vực dậy được!
Đây là một trong những tội ác ghê gớm nhất của những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam đối với dân tộc. Họ đã làm cho nhiều thế hệ bị bại hoại!
Nhưng bảo bối “nắm bao tử người dân” mất dần hiệu lực từ năm 1986, khi nền kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa đi vào ngõ cụt và nền kinh tế thị trường hình thành. Số lương thực, tem phiếu thực phẩm biến mất. Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ tiêu vong.
Cái ngày đó sẽ đến, không còn lâu nữa, đã có nhiều tín hiệu báo trước mùa Xuân đất nước.
Từ đầu năm 2006, thời thế đã đi một bước ngoặt chưa từng xẩy ra ở Việt Nam. Đó là hàng loạt các cuộc đình công lớn nổ ra ở cả hai miền đất nước. Khởi đầu là cuộc đình công của 42 ngàn công nhân khu chế xuất Sài Gòn, Bình Dương, Đồng Nai... Ở ngoài Bắc tại cảng Hải Phòng, 500 công nhân công ty Sao Vàng và ở thị xã Uông Bí hàng ngàn công nhân cũng nhất loạt đình công.
Cho đến ngay 21/3/06, các hãng xưởng công nhân vẫn tiếp tục đình công đòi tăng lương và cải thiện đời sống.
- Ngày 22/3/06, Đại diện công nhân ông Nguyễn Tuấn Hùng, khi trả lời buổi phỏng vấn của đài Á Châu Tự Do đã kêu gọi Tổng Liên Đoàn Lao Động Hoa Kỳ, cùng các tổ chức lao động quốc tế và đông đảo Việt Nam ở Hải Ngoại ủng hộ một tranh đấu của giai cấp công nhân Việt Nam và đòi thành lập công đoàn độc lập không phụ thuộc vào Tổng Công Đoàn Lao Động Việt Nam là công cụ của đảng Cộng Sản.
Thành lập một tổ chức công đoàn độc lập kiểu Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan, rõ ràng là nguyện vọng thiết thực của giai cấp công nhân Việt Nam được bộc lộ một cách công khai trước công luận trong và ngoài nước. Đây là một bước ngoặt lịch sử. Có một lực lượng thực sự của hàng triệu công nhân, sẵn sàng xuống đường... mặc dù đã có hàng trăm người bị bắt, nhưng cuộc tranh đấu đòi quyền sống vẫn tiếp tục...
- Ngày 24/3, 23.000 công nhân của hãng Poa Chen Đài Loan sản xuất giầy thể thao, gia công cho hãng Nike của Mỹ ở Biên Hòa tiếp tục đình công phản đối đồng lương chết đói. Họ tranh đấu để bảo vệ quyền lợi người lao động.
Nhà cầm quyền Hà Nội tỏ ra hết sức bối rối trước số lượng người tham gia quá đông đảo. Lực lượng công an tỉnh Đồng Nai đã phong tỏa con đường dẫn tới cầu Hang cách công ty Poa Chen 1 cây số.
Vì sao giai cấp công nhân Việt Nam đình công?
Theo các lý thuyết gia Mác-Xít, trong xã hội khi giai cấp công nhân đã nắm chính quyền và thực hiện quyền làm chủ thì không thể có chuyện đình công. Bãi công chẳng hóa là tự chống lại mình sao? Giai cấp công nhân là “Ông chủ nhà máy”, “Giai cấp tiền phong lãnh đạo cách mạng” cơ mà!
Chao ôi! Sau quá nửa thế kỷ “cách mạng đại thành công”, đánh đuổi được bọn đế quốc, tư bản bóc lột..., ngày nay lại chính những người lãnh đạo Cách mạng là kẻ rước những cựu thù... vào sâu xé đất nước, và cũng là kẻ bảo vệ cho sự “bóc lột” của tư bản ngoại quốc.
Bằng cả một guồng máy từ trung ương đến địa phương: Chủ Tịch, Bí thư Đảng bộ các cấp..., các cán bộ đầu tư, tài chính, ngoại vụ, thuế vụ, tổ trưởng. Và cả chủ tịch công đoàn của đảng. Nghĩa là tất cả đã được hợp thành bộ máy quản lý nhà nước để bảo vệ quyền lợi cho các ông chủ tư bản cá mập nước ngoài.
Qua các tin tức, báo chí trong nước chúng ta nhận thấy rõ ràng, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam không đứng về phía giai cấp công nhân để bảo vệ bênh vực quyền lợi cho họ, mà ngược lại bọn cầm quyền tỏ ra cố gắng hợp tác và bảo vệ quyền lợi cho tư bản nước ngoài. Điều ô nhục hơn nữa, là ngày 23-3 vừa qua Trần Đức Lương nhân danh chủ tịch nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN đã công khai đứng ra chính thức xin lỗi bọn tư bản nước ngoài về chuyện công nhân Việt Nam đình công làm thiệt hại đến quyền lợi kinh tế của họ.
Tư bản có kinh nghiệm “bóc lột”, nhưng người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam có kinh nghiệm “đàn áp” và ăn cướp của dân, hai thế lực độc quyền cấu kết với nhau ăn chia xương máu của giai cấp công nhân Việt Nam.
Mọi sự gian lận đều được phép “tùy theo phong bì đút lót”. Sau cùng là giai cấp công nhân Việt Nam chỉ còn được quyền “bị bán” sức lao động với giá rẻ mạt nhất.
Với bọn tài phiệt Tầu Đài Loan, Singapore Đại Hàn, thị trường Việt Nam như miếng mồi ngon trước miệng cọp đói. Còn Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam là hang ổ của bọn Mafia, sản phẩm của cách mạng tháng 8. Thực chất là như thế, nhưng chúng vẫn lớn tiếng hô hào xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa một chế độ tốt đẹp không có chuyện người bóc lột người!?
Thử hỏi các người! Các công ty tư bản ngoại quốc tính toán quyết định bỏ số vốn ra đầu tư vào thị trường Việt Nam để “thu lợi” làm sao mà họ theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” ?
Gian dối, lừa bịp vốn là sở trường của ban lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam!
Này các bạn công nhân Việt Nam! Các bạn có được chia chác chút quyền lợi nào không? Ngoài những lời hứa hẹn suông trong suốt bao thập niên qua. Bây giờ các bộ mặt nạ, ái quốc, chống Tây, chống Mỹ, đánh tư bản.., đã rơi xuống, chỉ còn lại những bộ mặt ác quỷ, nham nhở, ghê tởm nhất!
Thật bất hạnh cho dân tộc Việt Nam! Nhẽ ra thành phần lãnh đạo đất nước, phải là những phần tử ưu tú, tinh hoa của dân tộc, đằng này ngược lại nó tập hợp toàn loại người cặn bã của xã hội, đầu óc chậm lụt, trì độn. Chính bọn chúng là cái đại họa cho dân tộc!
Một đặc điểm chung nữa của giai cấp lãnh đạo là từ thấp tới cao, chúng luôn luôn cố gắng hưởng thụ phè phỡn, cờ bạc, trai gái, nhà lầu xe hơi và cố gắng hết sức kiếm dollars bỏ túi bằng bất cứ giá nào.
Cố gắng hết sức vơ vét tài sản quốc gia với bất cứ thứ gì, ở đâu. Cố gắng dắt mối cho bọn tư bản Tầu Đài Loan, Đại Hàn... vào bóc lột công nhân Việt Nam với quy mô lớn. Cố gắng dắt mối buôn bán nô lệ trên quy mô lớn (quốc tế).
Cố gắng dắt mối buôn bán phụ nữ trên quy mô lớn quốc tế. Vượt lên trên hết là cố gắng hết sức bám đít quan thầy Bắc Kinh, bằng cáchdâng bất cứ vùng đất, vùng biển nào của tổ tiên cho giặc. Nhưng lại cố gắng cướp đất của dân hèn, cố gắng dùng tất cả mọi thủ đoạn mưu mô đê hèn nhất để bảo vệ đảng, giữ địa vị bằng mọi giá. Không kể gì đến danh dự quốc gia, dân tộc!
Khi tôi đang viết bài này, thì Hội nghị Trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam 14 khai mạc. Phía Trung Cộng đã cử Giã Khánh Lâm đứng hàng thứ Bộ chính trị đảng Cộng Sản Trung Quốc sang Hà Nội chỉ đạo. Trong lúc các ủy viên trung ương đảng Cộng Sản VN còn đang bàn họp thì họ Giã đã nhất quyết là phía Việt Nam phải đề cử ông Nguyễn Tấn Dũng lên vị trí thủ tướng. Họ Giã nói: “Đó chính là nguyện vọng của Tổng Bí Thư Hồ cẩm Đào đã đề nghị phía lãnh đạo Việt Nam trong dịp ông Đào thăm Việt Nam hồi tháng 11 năm 2005”, bầu người lãnh đạo đất nước không theo nguyện vọng của dân tộc mình mà lại làm theo nguyện vọng của ngoại bang thì còn gì là độc lập, tư do, còn gì là thể thống quốc gia! Đây là mối nhục quốc thể!
Hỡi những người con yêu dấu của tổ quốc Việt Nam! Đất nước nhà đang nằm trong tay bọn Mafia. Chúng gồm một nhóm người rất nguy hiểm cho sự sống còn của cả dân tộc.
Các bạn ở đâu? Đang lúc dầu sôi lửa bỏng, thế nước chênh vênh, ngoài biển tầu chiến của Trung Cộng đang rong ruổi trên vịnh Bắc Bộ và hải phận Việt Nam.
Trên đất, khắp các tuyến biên giới phía Bắc đều bị giặc tầu lấn chiếm, những địa điểm then chốt về quốc phòng, những cửa ải thiên nhiên biên thùy, nhất là vùng Cao Bằng, Lạng Sơn. Từ Cao Bằng đến Lào Cai, một vùng đất giầu tài nguyên cũng là một khu vực hiểm trở mà chúng ta chỉ biết tổng quát. Từ Cao Bằng đến Bắc Giang cũng là một vùng khó khăn nhưng rất quan trọng về sự dính liền với Vương Quốc Lào, Miến Điện; rồi trong khu vực tỉnh Hà Giang Trung Cộng chiếm các mõm núi Đất và núi Bắc, nay Tầu đã đổi tên thành Lão Sơn và Giải Âm Sơn, và các dãy núi chung quanh dọc theo biên giới cửa ngõ tiến vào Việt Nam như các dãy 1545, 772, 233 thuộc huyện Vị Xuyên và Yên Minh. Tại Lạng Sơn, hai phần đất nằm cạnh cửa ngõ quan trọng khác vào Việt Nam là Ải Nam Quan cũng đã dâng cho Trung Cộng .
Đó là Khu vực Bình Độ 400, nằm sau cột Mốc 26 thuộc huyện Cao Lộc, hai dãy núi 820 và 636 thuộc xã Quốc Khánh, huyện Tràng Định. Những địa điểm chiến lược quan trọng hiểm yếu của nước ta, giới lãnh đạo Bắc Kinh biết rất rõ.
Chúng đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng việc cướp nước ta lần này,những hiệp định chúng ký với bọn Việt gian bán nước là những âm mưu sát nhập nước ta thành một tỉnh của Tầu.
Chúng điều khiển bọn tay sai thi hành từng bước đều rất rõ ràng.
Hỡi những người con yêu dấu của tổ quốc Việt Nam! Dù bạn ở đâu trên đất nước mình, từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu hay bôn ba ly tán nơi đất khách. Hãy nhớ và nắm chắc những dấu tích còn để lại:Thành Cổ Loa, Mê Linh, Thành Thăng Long. Trong tỉnh Lạng Sơn ngày nay vẫn còn có một tổng tên gọi là Chi Lăng, chính ở nơi đây, Quan ải ấy người anh hùng áo vải Lê Lợi tiêu diệt quân Minh đến cướp nước ta năm (1427), đông và mạnh gấp nhiều lần. Kỵ Binh Mông Thát lũ lũ, đàn đàn đã kéo sang phía Đông, rồi từ phía Đông ào ạt kéo sang phương Tây reo rắc chết chóc kinh hoàng. Vua tôi nhà Trần đã tiêu diệt chúng.
Hãy nghe người Tống nói về quân Mông Thát *
* (Theo sách “Hắc Thái sử lược” của Đại Nhã đời Tống)
Trăm quân kỵ quay vòng.
Vây bọc cả vạn người!
Ngàn quân kỵ tản ra
Trải dài đến trăm dặm.
Quân Mông Thát thế đó, mà ông cha ta đâu có khiếp sợ. Năm Tân Hợi (1251) Vua Trần Thái Tông lấy niên hiệu là Nguyên Phong thứ nhất và đến năm Đinh Tỵ (1257) Ngột Lương Hợp Thái cho sứ sang Đại Việt, nhưng bị vua Trần bắt trói hạ ngục; lại sai sứ sang lần thứ hai, bọn này cũng chung số phận bị bắt trói và cho vào ngục tối như bọn trước. Lúc đó, trẻ mục đồng cất tiếng hát:
Sứ đi rồi sứ lại về
Qua bến bồ đề sứ khóc nỉ non
Khóc rằng hỡi vợ hỡi con
Ta nay đi sứ chắc còn về không.
Ông cha ta như thế đó!
Qua bao nhiêu triều đại địa danh của nhiều địa phương cũng có phần thay đổi. Nhưng khúc sông Bạch Đằng, chạy qua địa phận Kiến An (Văn Úc) bây giờ vẫn vỗ sóng. Chiến thuyền quân Nguyên đã chẳng tan nát nơi khúc sông này.
Nhiều hàng cọc gỗ lim chôn giữa lòng sông, ta vẫn còn nhìn thấy, mỗi khi nước thủy triều xuống. Người dân miền sông Hóa (Thái Bình) nay vẫn còn ghi dấu chỗ thớt voi của Vương xưa sa lầy trong trận đánh quân Nguyên cách đây chín thế kỷ. Lời thề sông Hóa, lời thề quyết chiến của toàn dân nơi Hội Nghị Diên Hồng, tuy xa mà vẫn còn vang vọng. Hiện nay, ở làng Cổ Tích, núi Nghĩa Tích vẫn là nơi có đền Hùng thờ 18 đời Vua Hùng Vương dựng nước (2897-258) trước Tây lịch. Khối đá Thiên Ân trời ban ở đây giống như mảnh vẩn thiết (một mảnh tinh tú) từ trên trời rớt xuống, được thờ trong Đền Hùng. Khối đá Thiên Ân trời ban cũng mang ý nghĩa thiêng liêng ấy.
Còn ở Phúc Yên, huyện Đông Anh có ngôi làng nhỏ mang tên Cổ Loa, cùng dấu tích Loa Thành. Có kiến trúc xoáy trôn ốc tân kỳ. Đền thờ An Dương Vương cũng ở tại đây,
nhưng dấu tích còn để lại ấy nó chứng minh công lao khổ nhọc, bằng đội đá vá trời, lấp biển của Tổ Tiên ông cha ta đã dựng nước, giữ nước, mở mang bờ cõi tạo dựng nên giang sơn gấm vóc Việt Nam ngày nay.
-----------------------------------------------------
(Mong bạn đọc tiếp tục đọc Phần V)
No comments:
Post a Comment