Việt
Cộng bắt ông về lại, chặt đứt lìa hai bàn chân của ông trước sự hiện
diện của nhiều người tù khác, và rồi khi ông nằm lăn lộn trên mặt đất la
thét vì đau đớn, họ giết ông bằng một viên đạn từ khẩu súng lục bắn vào
miệng ông...
*
Hai câu chuyện sau đây kể về hai số phận của hai người trốn thoát cộng sản.
Người trốn thoát kể lại thảm sát ở Huế
HUẾ, Nam Việt Nam, 12 tháng Tư 1969 (AP) -Viên chức làng Phan Duy
thoát chết trong vụ thảm sát ở cồn cát tại Huế trong lúc đội hành quyết
của Việt Cộng đang đào mồ chôn ông.
Ít ai được may mắn như thế. Những người đào mồ sàng lọc thật kỹ ba hố
chôn tập thể ở phía đông cố đô và đã tìm thấy xác của hơn 500 đàn ông,
đàn bà và trẻ em. Tất cả nạn nhân đều bị kẻ thù đánh chết và bắn chết
trong cuộc tấn công vào dịp Tết 1968.
Ông Duy, một viên chức quan trọng ở làng An Hạ cách Huế 11 cây số về
phía đông, biết mình có tên trong danh sách hành quyết của Việt Cộng.
Cho nên khi những người cộng sản Miền Bắc và những người kháng chiến
Việt Cộng chiếm Huế vào tháng Hai 1968, ông đã rời làng đến trốn tại một
ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô Huế với hy vọng tránh bị phát hiện trong dân
chúng đông đúc hơn của thành phố Huế.
Ông trốn được suốt trong một tháng chiếm đóng của kẻ thù, nhưng khi quân
đội Mỹ và quân đội Miền Nam tái chiếm Huế, kẻ thù rút quân ngang qua
vùng ông đang trốn. Vào ngày 28 tháng Hai năm Việt Cộng bước vào nhà ông
Duy.
Bị giải đến Cồn Cát
Sau khi trói tay ông, Việt Cộng giải ông đi mười một cây số về hướng nam
tới một dãy nhà gần các cồn cát. Ông Duy kể họ đẩy ông vào một ngôi nhà
nơi có bốn người tù khác.
Năm người bị nhốt trong nhà bảy ngày, chỉ được đi ra ngoài mỗi lần cần
đi vệ sinh. Vào những dịp được ra khỏi nhà như thế ông Duy kể ông thấy
hơn 100 người bị bắn ở những ngôi nhà khác.
Vào đêm thứ bảy, ông Duy và chín người khác, tất cả đều cùng bị trói
chung vào một cọc tre, được bảo rằng họ sẽ được đưa đến một nơi khác để
"học tập cộng sản".
Nhưng lần này họ bị giải đi chỉ được độ 300 mét. Tay của những người tù
được mở trói rồi họ được lệnh cởi áo quần ra vì họ sắp sửa lội qua sông.
Khi ông Duy cởi áo quần ra ông nghe những lính canh tù nói chuyện với một nhóm lao công Việt Cộng.
"Các anh đào chiến hào xong chưa?" Họ hỏi.
"Chưa, chưa xong, có quá nhiều người nhưng không đủ thời gian." Những người lao công đáp.
Ba trong số sáu người lính canh tù nghe vậy bỏ đi để giúp đào hào, trong
khi ba ngưòi lính còn lại trói lại tay của ông Duy và chín người bạn
tù.
"Trời rất lạnh. Lúc ấy vào độ nửa đêm," ông Duy kể. "Tôi tìm cách cởi trói vì tôi biết trong vài phút nữa mình sẽ chết."
Ông Duy kể ông mở được sợi dây thừng và lao người về phía trước thì một người lính bắn theo độ hai mươi phát.
"Tôi chạy được độ 300 mét thì thấy một cái hồ nước," ông Duy kể. "Tôi nhảy xuống hồ và lấy cây sậy che kín người."
Hàng giờ sau ông mới ra khỏi hồ và đi về hướng ánh sáng ngọn đèn pha của
tháp đài phát thanh Huế. Ông lảo đảo bước vào trụ sở quận Phú Vang và
tường thuật lại tất cả mọi chuyện.
"Tôi nhớ vào ngày thứ hai tôi bị giam trong ngôi nhà ấy," ông nói, "có
người cùng làng bảo tôi Việt Cộng đã vào nhà tôi và giết mẹ tôi. Khi
tôi trở về tôi thấy xác mẹ tôi vẫn còn ở trong nhà. Tôi là người con duy
nhất của bà."
Nguồn: Washington Post 13/4/1969
*
Chết nhiều lần trước khi lìa đời
Trần Quốc Việt (Danlambao)
dịch - Ông Hương, một cựu binh sống với vợ và sáu con tại làng Bao Vinh
thuộc ngoại ô Huế, bị một toán Việt Cộng vào nhà bắt vào ngày thứ ba
của cuộc chiếm đóng. Họ tố cáo ông trước đây là lính, vì vậy ông phải "trả nợ cho tội ác chống lại nhân dân," rồi bắt ông đi đến nơi giam giữ nhiều người khác trong làng.
Mặc dù hai cánh tay ông Hương bị trói đằng sau lưng, ông vẫn lẻn trốn đi
được, nhưng rồi bị bắt lại cách nơi giam giữ vài trăm mét.
Việt Cộng bắt ông về lại, chặt đứt lìa hai bàn chân của ông trước sự
hiện diện của nhiều người tù khác, và rồi khi ông nằm lăn lộn trên mặt
đất la thét vì đau đớn, họ giết ông bằng một viên đạn từ khẩu súng lục
bắn vào miệng ông. (1)
(1) Theo Như Hà, "Khi năm Tuất đến, Huế vẫn còn khóc cho Tết năm Thân",
nhật báo Chính Luận, phần 3 của chuyên đề 3 phần, ngày 1 tháng Hai
1970, trang 7. Một người hàng xóm chứng kiến vụ hành quyết đã kể lại cho
vợ của nạn nhân.
Nguồn: Vietnam Center and Archive
Study of the Hue Massacre [March 1968], trang 49. Tựa đề của người dịch.
No comments:
Post a Comment