Tiếp theo: Phần I
IV.- Bản tuyên bố cuối cùng không chữ ký:
Sau khi Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam
được ký kết, các phái đoàn họp tiếp ngày 21-7-1954 và “thông qua” bản
“Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở
Đông Dương”. Đây chỉ là lời tuyên bố (Déclaration) của bảy phái đoàn,
có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam, và đặc biệt không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố nầy, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký.
Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden
(ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì 7 phái đoàn là Anh, Pháp,
Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng
“đồng ý”.(10) Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn QGVN không đồng ý, và tự đưa ra tuyên bố riêng của mình.
Bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị
Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” gồm 13 điều, trong
đó quan trọng nhất là điều 7. Điều nầy ghi rằng:
“Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt
Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn
trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm
cho nhân dân Việt nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi
những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu
kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân
dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ
chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu
những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong
Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục
có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về
vấn đề đó.” (Bản dịch của Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường) (11a)
Điều 7 của bản Tuyên bố được xem là dự kiến về một giải pháp chính trị trong
tương lai, theo đó một cuộc tổng tuyển cử sẽ có thể được tổ chức để
thống nhất đất nước, mà sau nầy Bắc Việt dựa vào điều nầy để đòi hỏi Nam
Việt tổ chức tổng tuyển cử trên toàn quốc.
Bắc Việt thường nói và viết rằng việc tổ chức tổng tuyển cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam là theo quyết định của Hiệp định Genève. Thật ra Hiệp định Genève
chỉ là một hiệp định đình chỉ chiến sự (đình chiến) mà không đưa ra một
giải pháp chính trị nào. Giải pháp chính trị về một cuộc tổng tuyển cử
giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam dự tính tổ chức vào năm 1956 nằm
trong điều 7 của bàn “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn
đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”
Trong bản tuyên bố riêng của phái đoàn
QGVN, bác sĩ Trần Văn Đỗ, trưởng phái đoàn, giải thích vì sao phái đoàn
QGVN không ký kết hiệp định Genève. Sau khi phản đối việc chia
cắt đất nước và việc đại diện quân đội Pháp tự ý ký kết hiệp định mà
không đếm xỉa gì đến quyền lợi của quân đội Quốc Gia và nhân dân Việt
Nam, bản tuyên bố của phái đoàn QGVN viết:
“Vì thế cho nên chính phủ Việt Nam
yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng
phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng
nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị
ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động
để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực
hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.”(11b)
Vì phái đoàn QGVN không ký vào bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (hiệp định Genève)
và nhất là không tham dự vào bản “Tuyên bố cuối cùng”, nên chính phủ
QGVN tự cho rằng không bị ràng buộc vào điều 7 của bản tuyên bố nầy.
Về phiá Hoa Kỳ, trưởng phái đoàn là
Bedell Smith cũng đưa ra bản tuyên ngôn ngày 21-7-1954 theo đó, tuy
không ký vào hiệp định, nhưng Hoa Kỳ cam đoan không đe doạ hay dùng võ
lực để sửa đổi hiệp định; Hoa Kỳ sẽ nghiêm xét bất cứ một hành vi tái
gây hấn vi phạm thoả hiệp trên, đe doạ hòa bình và an ninh thế giới; Hoa
Kỳ tôn trọng việc thực hiện thống nhất Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự
do đặt dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Ông Bedell Smith kết luận:
“Chúng tôi chia sẻ niềm hy vọng rằng
các thỏa hiệp nầy sẽ cho phép Cao Miên, Lào và Việt Nam nắm giữ điạ vị
của họ, trong độc lập hoàn toàn và chủ quyền đầy đủ, giữa cộng đồng yêu
chuộng hoà bình của các quốc gia, và sẽ khiến cho các dân tộc ở các vùng
đó có thể tự định đoạt lấy tương lai của mình.”(11c)
V.- Việc thi hành Hiệp định Genève
Hội nghị Genève kết thúc với ba văn kiện
chính thức (ngày 20-7-1954) và một bản tuyên bố chung (ngày 21-7-1954)
là: 1) Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. 2) Hiệp định đình chỉ
chiến sự ở Lào. 3) Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Cambodge (Cambodia).
4) Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa
bình ở Đông Dương.
Ngoài bốn văn kiện trên, còn có hai văn
kiện do hai phái đoàn đưa ra là: 1) Tuyên ngôn của phái đoàn QGVN. 2)
Tuyên ngôn của phái đoàn Hoa Kỳ.
Cần chú ý hai điểm: Thứ nhất, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam tức Hiệp định đình chiến Genève
chỉ có tính cách thuần túy quân sự, nói về việc rút quân, tập trung
quân, thời hạn chuyển quân… mà hoàn toàn không đề cập đến giải pháp
chính trị.
Thứ hai, không có phái đoàn nào ký tên
vào bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại
hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Một điều rất lạ lùng là sự việc
bất thường nầy, một văn kiện quốc tế mà không có chữ ký, lại ít được chú
ý và ít được sách báo viết đến.(12)
Điều 7 của bản tuyên bố nầy mở đầu bằng câu “Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam…” (La Conférence déclare qu’en ce qui concerne le Vietnam…),
nghĩa là về vấn đề Việt Nam, Hội nghị nghĩ rằng, đưa ra ý kiến rằng,
hay dự kiến rằng … một cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng
7-1956…, còn làm theo hay không làm theo, nghĩa là thi hành hay không
thi hành, là tùy các bên liên hệ. Hội nghị không cam kết và cũng không
yêu cầu các bên liên hệ cam kết là sẽ thi hành tổng tuyển cử, vì bằng
chứng rõ ràng nhất là Hội nghị không yêu cầu bên nào ký vào bản tuyên bố
nầy, để cam kết hay để giữ lời cam kết.
Những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị vi phạm trắng trợn, huống gì là những bản tuyên bố không chữ ký.
Hơn nữa, đây là một bản tuyên bố chứ
không phải là một bản hiệp ước. Môt bản tuyên bố lại không có chữ ký
của bất cứ phái đoàn nước nào, kể các các chính phủ liên hệ đến cuộc
chiến ở Đông Dương, có được xem là một văn kiện có giá trị pháp lý để thi hành hay không?
Vì những lý do căn bản nầy, bản “Tuyên
bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông
Dương”, trong đó đặc biệt điều 7 của bản tuyên bố nầy về dự kiến một
cuộc tổng tuyển cử trong năm 1956, không có tính cách pháp lý
để bắt buộc bất cứ nước nào thi hành. Nói cho cùng, có thể nói rằng
bản tuyên bố nầy khá mơ hồ và không đưa ra một giải pháp chính trị cụ
thể cho tương lai Đông Dương sau khi hai bên đình chiến.
Tinh thần của bản tuyên bố Genève ngày
21-7-1954 khiến người ta liên tưởng đến “Tối hậu thư Potsdam” mà các
nước Anh, Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) gởi cho Nhật
Bản ngày 26-7-1945. Tối hậu thư Potsdam buộc Nhật Bản đầu hàng vô điều
kiện và quy định rằng ở Đông Dương quân đội Trung Hoa sẽ giải giới quân
đội Nhật ở phía bắc vĩ tuyến 16, và quân đội Anh sẽ giải giới quân đội
Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16 (ngang qua Tam Kỳ). Tuy nhiên tối hậu thư
nầy không đề cập đến việc ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật
bị giải giới và rút về nước, nghĩa là không đưa ra một giải pháp chính
trị cho Đông Dương.
Điều nầy sẽ tạo ra một khoảng trống hành
chánh và chính trị tại Đông Dương sau năm 1945 một khi những quyết định
trong tối hậu thư Potsdam được thi hành, vì nếu Nhật đầu hàng, chính
phủ Trần Trọng Kim do Nhật bảo trợ, cũng sẽ sụp đổ, thì ai sẽ là người
có thẩm quyền tại Đông Dương? Đây là thâm ý của Anh và Hoa Kỳ, cố tình
bỏ ngỏ khoảng trống chính trị để tạo điều kiện cho Pháp trở lại Đông
Dương.
Nay bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị
Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” cũng đi vào vết xe
cũ, không đưa ra một giải pháp chính trị cụ thể cho tương lai Đông
Dương, ngoài một bản tuyên bố không có người ký. Từ đó, các bên liên hệ
đến bản tuyên bố có thể tùy tiện giải thích bản tuyên bố một cách khác
nhau, tùy theo chủ trương chính sách của mỗi bên, và nhất là tùy theo
“lý của kẻ mạnh”.
Ngay trong Hội nghị Liễu Châu từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, cả CHNDTH lẫn VNDCCH đã thỏa thuận tạm hòa để tiếp tục chiến tranh. Cũng trong hội nghị Liễu Châu, những nhà lãnh đạo VNDCCH đã trình bày kế hoạch hậu chiến,
trường kỳ mai phục, gài người cùng chôn giấu vũ khí tại miền Nam để chờ
đợi thời cơ nổi dậy. Như thế có nghĩa là kế hoạch tấn công miền Nam,
vi phạm hiệp định Genève đã được phía cộng sản dự tính trước khi ký kết hiệp định.
Cho đến nay, chưa có một giải thích cụ
thể nào cho biết tại sao bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève
1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”, lại không không có chữ ký
của phái đoàn các nước? Phải chăng sau nhiều tháng hội họp, các phái
đoàn quá mệt mỏi với những tranh cãi triền miên, nên chỉ hỏi ý kiến bằng
miệng cho chóng thông qua? Hay phải chăng có một âm mưu muốn tính
chuyện về sau, nên chỉ hỏi bằng miệng để bỏ ngỏ vấn đề, nhằm dọn đường
cho những tính toán chính trị kế tiếp sau hiệp định Genève? Và
ai là người đã chủ xướng biện pháp chính trị lập lững nầy? Nước nào
chủ xướng thì chưa biết, nhưng chính phủ QGVN rất yếu thế, ngay từ đầu
lại bác bỏ việc chia cắt đất nước, phản đối hiệp định Genève, nên chắc chắn QGVN không phải là nước chủ xướng.
Ngày 22-7-1954, thủ tướng chính phủ QGVN
là Ngô Đình Diệm ra tuyên cáo phản đối việc chia hai nước Việt Nam.
Tuy nhiên cuối cùng chính phủ QGVN vẫn chấp nhận thi hành hiệp định Genève
ngày 20-7-1954, chia hai đất đất nước ở sông Bến Hải, vùng vĩ tuyến
17. Như thế, từ năm 1954, tại Bắc và Nam Việt Nam, có hai chính phủ
riêng biệt, theo hai chính thể riêng biệt, tức có hai nước Việt Nam
riêng biệt.
Thi hành hiệp định đình chiến Genève,
việc ngưng bắn chính thức có hiệu lực ngày 27-7-1954 tại Bắc Việt, ngày
1-8-1954 tại Trung Việt, và ngày 11-8-1954 tại Nam Việt. Vấn đề cấp
thời của hai chính phủ là tập trung và di chuyển quân đội, công chức,
cán bộ của mình và cả dân chúng, về khu vực cai trị của mình. Điều 2
của Hiệp định Genève (20-7-1954) cho phép thực hiện việc di
chuyển các lực lượng của hai bên về vùng tập hợp ở hai bên giới tuyến
tạm thời trong thời gian 300 ngày.
Ngày 9-10-1954 là hạn chót cho những
người muốn di cư vào Nam di tản khỏi Hà Nội. Hôm sau, ngày 10-10-1954,
quân đội VM vào tiếp thu Hà Nội. Chủ tịch Uỷ ban Quân quản Hà Nội của
VM là Vương Thừa Vũ tức Nguyễn Văn Đồi, người đã chỉ huy cuộc tấn công
Hà Nội ngày 19-12-1946 và trở thành tư lệnh sư đoàn đầu tiên của VM là
sư đoàn 308. Hải Phòng, điểm tập trung đồng bào miền Bắc muốn di cư
bằng tàu thủy vào miền Nam, do VM tiếp thu ngày 13-5-1954. Ba ngày sau,
toán lính Pháp cuối cùng rút lui khỏi đảo Cát Bà (vịnh Hạ Long, vùng
Hải Phòng) ngày 16-5-1955. (Nếu tính từ ngày ngưng bắn có hiệu lực ở Bắc
Việt (27-7-1954) cho đến ngày 16-5-1955 là 9 tháng 20 ngày.)
Số người từ miền Nam tập kết ra Bắc
không được thống kê đầy đủ. Theo sự trình bày của Võ Nguyên Giáp tại
Hội nghị Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Hoa) từ ngày 3-7-1954 giữa Hồ Chí
Minh và Châu Ân Lai, trước khi chiến tranh kết thúc, VM dự tính bước đầu
rút khoảng 60,000, trong đó 50,000 người là bộ đội và 10,000 người làm
công tác chính trị, nhất là những người “đỏ” quá, không thể ở lại.
Ngoài ra, VM dự tính sẽ lưu lại miền Nam từ 5,000 đến 10,000 người để
chờ thời cơ, và vũ khí nào cất giấu được thì cất giấu sau khi quân đội
rút đi.(13) Theo một tài liệu khác cũng của cộng sản, số người tập kết ra Bắc khoảng 175,000 người và 15,0000 học sinh.(14) Số lưọng nầy có thể đã được phóng đại và không thể kiểm chứng được.
Số người từ miền Bắc di cư vào miền Nam lên đến khoảng gần 900,000 người.(15)
Trong số nầy, nhân viên chính quyền (tức công chức) và quân nhân chiếm
một phần ít, còn đại đa số là dân chúng. Đây là đợt tỵ nạn cộng sản lớn
lao đầu tiên trong lịch sử hiện đại, cũng là đợt di dân nội địa lớn lao
nhất trong lịch sử nước ta.
Vài điểm đáng chú ý về cuộc di cư vĩ đại của dân chúng miền Bắc vào miền Nam như sau:
Thứ nhất,
số người ra đi đông
đảo như trên rời đất Bắc có lợi cho đảng Lao Động, vì những thành phần
chống cộng, đối lập, bất đồng chính kiến, những nhân vật theo các đảng
phái Quốc gia, đều rút về miền Nam, nên không còn, hay ít còn người ở
lại đối kháng với chế độ mới ở ngoài Bắc.
Thứ hai,
người Việt Nam vốn rất
ràng buộc với quê cha đất tổ, mà gần một triệu người đành phải bỏ xứ ra
đi. Trong chiến tranh, bộ máy tuyên truyền của Việt Minh luôn luôn ca
tụng chế độ cộng sản và chê bai chính thể QGVN. Nay cuộc di cư vĩ đại
có thể xem là cuộc trưng cầu dân ý cho thấy số người miền Bắc chọn lựa
vào miền Nam đông hơn số người miền Nam tập kết ra Bắc, chứng tỏ lòng
dân như thế nào đối với chế độ của đảng Lao Động (tức là đảng CSVN)?
Thứ ba,
sự chọn lựa nầy củng cố
niềm tin nơi chính phủ QGVN, giúp chính phủ QGVN vững tâm hành động, và
làm tăng giá trị của chính thể QGVN đối với thế giới.
Thứ tư,
ngoài những cán bộ cộng sản được cài lại ở miền nam, sống lẫn lút trà trộn trong dân chúng,(16)
chắc chắn đảng Lao Động không bỏ qua cơ hội cho đảng viên cốt cán len
lõi vào đoàn người di cư vào miền Nam để làm tình báo, như trường hợp Vũ
Ngọc Nhạ,(17) hay Vũ Bằng…(18)
Đúng một năm sau hiệp định Genève,
để kiếm cớ gây chiến, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa (VNDCCH), tức Bắc Việt gởi thư ngày 19-7-1955 cho thủ tướng Quốc Gia
Việt Nam (QGVN) tức Nam Việt là Ngô Đình Diệm, yêu cầu mở hội nghị hiệp
thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, để bàn về việc tổng tuyển cử thống
nhất đất nước theo quy định của hiệp định Genève.
Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm
đã bác bỏ đề nghị của thủ tướng Phạm Văn Đồng, dựa vào lý do rằng chính
phủ QGVN không ký vào hiệp định Genève và nhất là vì không có bằng chứng nào cho thấy VNDCCH đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi Quốc tế Cộng sản.
Chính thể QGVN đổi thành Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH) vào ngày 26-10-1955. Tuy chính phủ VNCH nhiều lần từ chối,
Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956,
18-7-1957, và 7-3-1958 để tuyên truyền với quốc tế. Lần cuối, Ngô Đình
Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị trên vào ngày 26-4-1958.
Do vào sự bác bỏ của của chính phủ Nam Việt, Bắc Việt tố cáo chính phủ Nam Việt không tôn trọng hiệp định Genève. Trong khi đó, hiệp định Genève
chỉ là một hiệp định đình chiến và đã được các phe liên hệ tức là chính
phủ VM và chính phủ QGVN thi hành xong ngay từ 1954, chia hai nước Việt
Nam thành Bắc Việt và Nam Việt duới sự giám sát của Uỷ hội Quốc tế Kiểm
soát Đình chiến, gồm đại diện các nước Canada (Gia Nã Đại), Poland (Ba
Lan), India (Ấn Độ). Còn bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève
1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” không có chữ ký, thì chẳng
có giá trị pháp lý để thi hành. Tuy nhiên, kẻ gây hấn thì luôn luôn có
lý do để gây hấn.
Kết luận
Sau trận Điện Biên Phủ (7-5-1954), khi
Pháp quyết định rời bỏ hẳn Việt Nam, các cường quốc trên thế giới, Quốc
tế Cộng Sản cũng như Quốc tế Tư bản, lại một lần nữa can thiệp, và áp
đặt một giải pháp chính trị theo quyền lợi của họ, buộc các phe phái ở
Việt Nam phải thi hành.
Để bỏ chạy an toàn, Pháp thỏa mãn những
đòi hỏi về phía khối cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản chia hai nước Việt
Nam và ấn định lịch tổng tuyển cử năm 1956, mà không cần đếm xỉa đến ý
nguyện của chính phủ QGVN. Pháp quyết ký hiệp định Genève (20-7-1954),
để vĩnh viễn rút quân ra khỏi ba nước Đông Dương, không còn liên hệ gì
đến Việt Nam. Như thế, Pháp dựa vào tư cách nào để ấn định lịch tổng
tuyển cử vào năm 1956 về tương lai chính trị nước Việt Nam? Lịch tổng
tuyển cử nầy lại không được các phái đoàn tham dự ký kết để bảo đảm thi
hành. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy cộng sản luôn luôn ký kết hiệp ước
để làm kế hoãn binh và không bao giờ tôn trọng hiệp ước đã ký kết, huống
gì là những văn bản không có chữ ký như bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội
nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày
21-7-1954.
Cần chú điểm chót: Khi Mao Trạch Đông
chiếm lục địa Trung Quốc, các cường quốc Tây phương không công nhận
CHNDTQ và không cho CHNDTQ thay thế Trung Hoa Dân Quốc tại Liên Hiệp
Quốc. Nhờ chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc được các cường quốc mời họp
Hội nghị Genève. Nghĩa là Trung Quốc được ngồi ngang hàng với các cường
quốc Tây phương nhờ chiến tranh Việt Nam, nhờ xương máu của dân tộc
Việt Nam. (Việc nầy tái diễn trong chiến tranh 1960-1975, vì do cuộc
chiến nầy, Nixon qua Bắc Kinh dàn xếp với Mao Trạch Đông và Châu Ân
Lai. Sau đó, Hoa Kỳ mở cửa cho Trung Quốc cộng sản vào LHQ.)
Chính phủ QGVN non trẻ, bị động theo
chính sách của Pháp, là chuyện đành phải chấp nhận. VNDCCH (VM), dầu đã
lợi dụng và sử dụng xương máu người Việt để chiến đấu, và tự cho rằng
đã chiến thắng đế quốc Pháp, cũng không thể cưỡng chống lại những ý đồ
của Liên Xô và CHNDTQ.
Nói cách khác, người Việt ở cả hai phía
nói chung, hoàn toàn không thể tự quyết định tương lai của chính mình,
mà phải bị động trước những áp đặt của ngoại bang, dù đó là ngoại bang
tư bản hay ngoại bang cộng sản. Bất cứ một ngoại bang nào đến với Việt
Nam cũng đều vì quyền lợi riêng tư của họ, chứ chẳng phải vì yêu thương
hay giúp đỡ nước Việt Nam. Chẳng bao giờ có tình nghĩa xã hội chủ nghĩa hay tình nghĩa tư bản chủ nghĩa. Chỉ có “quyền lợi chủ nghĩa” giữa các nước mà thôi.
Đất nước bị chia hai, dân tộc bị chia hai, nhưng Hiệp định Genève
chỉ là một hiệp định “đình chiến”, tức mới chỉ ngừng tay đánh nhau, chứ
chưa phải là hiệp ước hòa bình. Sau chín năm chiến tranh triền miên
(1946-1954), dân chúng Việt Nam rất khao khát hòa bình, nhưng giấc mơ
hòa bình vẫn còn ngoài tầm tay của người Việt. Lòng dân muốn hòa bình,
nhưng những kẻ chủ trương độc tài luôn luôn muốn tóm thâu quyền lực,
luôn luôn muốn xâm lấn để toàn trị. Và như thế, vận nước chưa hết nổi
trôi, người Việt sẽ vẫn còn tiếp tục thống khổ…(Trích Việt sử đại cương tập 5.)
(Toronto, 19-7-2010)
© Trần Gia Phụng
————————————————————————————————-
Chú thích:
- Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nam Á 2002, tr. 2642. Trong sách Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, sđd. tr. 54, đăng bài dịch của bản “Tuyên bố” nầy, nhưng phía dưới không có tên người ký. Tài liệu Pentagon Papers cũng không có tên ai ký dưới bản tuyên bố.
- Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, sđd. tr. 53 (11a), tr. 56 (11b), tr. 58 (11c). Nguyên văn tiếng Pháp điều 7 như sau: “La Conférence déclare qu’en ce qui concerne le Vietnam, le règlement des problèmes politiques, mis en oeuvre sur la base du respect des principes de l’indépendance, de l’unité et de l’intégrité territoriales, devra permettre au peuple vietnamien de jouir des libertés fondamentales, garanties par des institutions démocratiques formées à la suite d’élections générales libres au scrutin secret. Afin que le rétablissement de la paix ait fait des progrès suffisants et que soient réunies toutes les conditions nécessaires pour permettre la libre expression de la volonté nationale, les élections générales auront lieu en juillet 1956, sous le contrôle d’une commission internationale composée de représentants des Etats membres de la Commission internationale pour la surveillance et le contrôle visée à l’accord sur la cessation des hostilités. Des consultations auront lieu à ce sujet entre les autorités représentatives compétentes des deux zones à partir du 20 juillet 1955. (http://www.ena.lu/conference_geneve_20_21_juillet_1954-010703174.html). Có thể xem thêm bản tiếng dịch Anh: Gravel (ed.), Pentagon Papers, Vol. 1, pp. 279-282.
- Ngày nay, vào Google.com, tìm “Déclaration finale de Genève en 1954”, thì có ghi rõ câu nầy ngay từ tiểu mục của các bài viết: “Une déclaration finale en treize points, non signée par les participants.. “ [Môt bản tuyên bố cuối cùng gồm 13 điểm, không chữ ký của những người tham dự..]
- Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân lai và Hội nghị Genève], Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27, “Hội nghị Liễu Châu then chốt”. (diendan@diendan.org) (trích ngày 1-2-2009.) Xem thêm Thế Kỷ 21, số tháng 8-2007, tr. 29. Ông Nguyễn Văn Trấn, trong sách Viết cho Mẹ & Quốc hội, Nxb. Văn Nghệ, California, 1995, có đề cập đến vấn đề người miền Nam tập kết ra Bắc, nhưng cũng không cho biết cụ thể số lượng người tập kết là bao nhiêu?
- Đặng Phong chủ biên, Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập II 1955-1975, Hà Nội: Nxb. Khoa Học Xã Hội, 2005, tr. 45.
- Theo Đoàn Thêm, đến ngày 30-10-1955 là ngày chính thức chấm dứt cuộc di cư, số lượng người di cư tỵ nạn là 887,890 người. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 195.) Thực tế ở ngoài còn cao hơn nhiều.
- Điển hình là Lê Duẫn, bí thư Xứ uỷ Nam bộ, ở lại miền Nam đến 1957 mới ra Bắc. (Về sau, người ta mới biết điều nầy.) (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập I-C: 1955-1963, Houston, Nxb. Văn Hóa, 2000, tr. 17.)
- Vũ Ngọc Nhạ: Khi di cư vào Nam năm 1954, Vũ Ngọc Nhạ làm giám thị tại một trường học do linh mục Hoàng Quỳnh phụ trách. Nhờ linh mục Hoàng Quỳnh giới thiệu, Vũ Ngọc Nhạ dần dần được đưa vào làm việc ở phủ tổng thống dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa. Vũ Ngọc Nhạ bị nghi ngờ, bị bắt một thời gian, nhưng không có bằng chứng cụ thể nên được thả ra. Qua thời Đệ nhị Cộng Hòa, Vũ Ngọc Nhạ tiếp tục hoạt động, và bị bắt trở lại vào ngày 28-7-1969 vì tội làm gián điệp trong cụm tình báo chiến lược A 22 của cộng sản.
- Vũ Bằng (1914-1984), tên thật là Vũ Đăng Bằng, còn có những bút danh khác là Tiêu Liêu, Lê Tâm, Vũ Tường Khanh, Hoàng Thị Trâm, nguyên quán tỉnh Hải Dương, là một nhà báo khá nổi tiếng ở Hà Nội trước năm1954 và Sài Gòn sau 1954. Đặc biệt, theo tiết lộ của báo chí Hà Nội (báo Nhân Dân ngày 9-3-2000, báo An Ninh Thế Giới số 172, ngày 13-4-2000), Vũ Bằng hoạt động cho Cục tình báo chiến lược quân sự của cộng sản từ năm 1952. Năm 1954, Vũ Bằng di cư vào Sài Gòn tiếp tục hoạt động với tư cách là cơ sở khai thác tin tức phục vụ tình báo cho đến 30-4-1975. Tác phẩm để lại: Lọ văn (1936), Một mình trong đêm tối (1937), Truyện hai người (1940), Tội ác và hối hận (1940), Để cho chàng khỏi khổ (1941), Cai (1948), Ăn tết thủy tiên (1956), Khảo về tiểu thuyết (1960), Bốn mươi năm nói láo (1969), Món lạ miền Nam (1970), Cái lồng đèn (1971), Nhà văn lắm chuyện (1971), Những cây cười tiền chiến (1971), Nói có sách (1972), Thương nhớ mười hai (1972), và một số sách dịch.
No comments:
Post a Comment