Những
tên Việt cộng đã lừa gạt, thu vàng của người Việt gốc Hoa, rồi tống họ
ra biển trên những chiếc thuyền có gài sẵn chất nổ, và cho nổ tung, để
giết chết những nạn nhân vô tội này, là những tên tàn ác, là những tên
đồ tể!
Cần
phải biết: những tên Việt cộng này, ngoài một số ở trong nước, vẫn có
những tên đã được đảng Cộng sản đưa sang các nước Âu, Mỹ, để hoạt động
"nằm vùng" trong nhiều lãnh vực... Người Việt Tỵ nạn cộng sản thực sự,
phải hết sức thận trọng trong việc giao du với chúng, phải loại trừ bọn
chúng, không cho bọn chúng có cơ hội để xâm nhập vào hàng ngũ của người
Việt Quốc Gia yêu nước và chống Cộng.
May
mắn cho tôi là khi vượt biên vô cùng thuận buồm xuôi gió, nhưng ngược
lại, tôi là chứng nhân của một vụ cướp của giết người thật là rùng rợn
do bọn cộng sản Việt Nam thực hiện vào năm 1977 tại căn cứ Hải Quân Cát
Lái cũ của QLVNCH.
Lúc
bấy giờ tôi làm công nhân cho thuỷ đội Cảng, trên chiếc tàu kéo CSG 92
(Soài Rạp). Vào khoảng tháng 01/1977 tàu chúng tôi chạy lên con sông Sài
Gòn tới phía sau nhà máy nhiệt điện Thủ Đức và kéo chiếc tàu tên là Chi
Mai về Kinh Tân Thuận (kinh đôi) để cơ xưởng cảng Sài Gòn gắn
thêm một số máy phụ như máy charge gió (air compressor), máy bơm nước
lường, cũng như gắn thêm một số ống gió thông hơi từ boong tàu xuống tận
3 tầng dưới hầm máy
. Tôi thấy cách thiết kế vô cùng lạ mắt và không có
một chút gì là an toàn cho việc vận hành, cũng như an toàn thoát hiểm
tối thiểu cho một con tàu di chuyển trên sông nước. Tôi có hỏi chú Sáu
Bền người công nhân đầu não của xưởng nầy về việc lạ lùng này thì chú
trả lời rằng : « Chú đâu biết gì đâu. Nghe nói rằng thành uỷ thuê xưởng
sửa chữa làm một số việc và nhà nước đôi bên thanh toán cho nhau. Chú
chỉ là lính lác nên đâu biết gì việc của họ ».
Con
tàu nầy có máy chính hiệu của Đức chế tạo, công suất 900 horse power.
Con tàu nầy dài khoảng chừng 22 m rộng 5,5 mét, chiều sâu tính từ mớm
nước khoảng 3,3 mét, nhưng nếu tính từ trên mặt boong (deck) khoảng 5
mét là cùng. Khi tàu nầy gần ra khỏi ụ sửa chữa nó được hàn thêm một số
miếng sắt chữ V loại 6mm làm một boong giả thêm nữa, cao hơn mặt boong
khoảng 1,70 mét.
Bấy
giờ những người Hoa Kiều trong Chợ Lớn thường tấp nập vào tầu nầy xem
xét cúng bái và họ thường mang trái cây hoặc thịt thà qua biếu cho chúng
tôi ăn. Sau vài lần họ muốn thuê chú Hai Lâm Văn Tới làm Cơ Khí Trưởng cho tàu nầy. Họ nói dối rằng đấy là tàu khách chạy từ sài Gòn đi Cần Thơ. Nhưng chú khước từ, vì
tàu CSG 62 của chú cũng sửa chữa sắp xong để hoạt động kéo xà lan nước
đi Vũng Tàu cung cấp cho các tàu chiến cũng như đánh cá đang neo tại
vùng cảng ấy. Sau họ bảo thật là đi vượt biên chính thức và sẵn lòng chi
15 lượng vàng và cho hết 6 người trong gia đình chú đi luôn không phải
trả một xu nào cả, nhưng chú vẫn khước từ.
Sau đó tôi thấy tên Út Lương tên thật làLương Văn Út
Thuyền Trưởng tàu khách An Giang chạy từ Tân Châu - Long Xuyên - Sài
Gòn và ngược lại, nhận lời. Tên Úc nầy là Việt Kiều Kampuchia hồi hương
về VN năm 69 hay 70 gì đó. Năm đó là năm Quân Lực VNCH hành quân vô
Kampuchia tấn công và san bằng cục R của VC và cứu vớt Việt Kiều khỏi bị
bọn Lon Nol và Khmer Đỏ cáp duồn thả trôi sông Cửu Long về Việt Nam.
Út
Lương có nước da sậm nâu, gần giống như Miên. Không hiểu hắn xoay ở đâu
ra bằng Tài Công hạng nhất của Bộ giao thông và Bưu điện cấp cho hắn.
Bằng màu đỏ hẳn hòi, còn mới cứng, chứ thằng nầy nó dốt như Hồ Chí Minh,
tiếng Tây thì quẹt quẹt, tiếng Miên thì good, tiếng Việt và tiếng Tàu
thì cũng khá khá, nhưng về hải nghiệp nó là con zéro to tướng. Nội việc
khử từ trường cho hải bàn khi tàu sửa chữa, hay trang bị thêm chi tiết
nó cũng không biết, làm floating radar, hoặc tâm phương qua tín hiệu
kiểm báo nó cũng mù tịt, thì nói chi đến tính toán sai biệt trục địa cầu
hàng năm để cộng thêm vào hướng đi, hoặc trừ bớt cho đúng với hướng
thật sự muốn đi. Nhưng hắn vẫn nhận trách nhiệm đưa tàu đến Cát Lái.
Giờ
đây tôi không chắc nhớ rõ ngày tháng sự vụ xảy ra, tôi chỉ nhớ lúc ấy
trời nắng gắt lắm khoảng tháng 04 hay 05 gì đấy, bấy giờ tôi kéo xà lan
chở nước xuống kho dầu Shell ở Nhà Bè bơm cho tàu dầu Hasukha của Liên
Xô, và sau đó kéo ủi yểm trở cho hoa tiêu đưa tàu vào cặp cảng kho Esso
Nhà Bè. Việc xong xuôi, tôi cặp xà lan nước đã giao hàng xong, kéo về
lại cảng Sài Gòn. Nhưng khi tàu sắp quanh vào khúc đèn xanh đỏ của sông
Sài Gòn, thì tôi thấy người trôi nổi lặn hụp bơi ngửa, bơ xấp đủ kiểu
hết. Họ có áo phao bằng styro foam hoặc bằng túi hơi như loại hàng không
phát cho hành khách. Cũng có người ôm bẹ dừa nước thả ngửa trên sông.
Tôi
co giảm vận tốc tàu lại và yêu cầu anh em thuỷ thủ ở tàu kéo cũng như
xà lan thả các thang dây trên tàu và xà lan xuống tận mé nước đồng thời
lấy các phao tròn cột dây vào quăng ra cho họ bám vào để kéo họ lên các
thang dây của tàu và xà lan.
Lúc
bấy giờ là nước ròng chảy ra biển, và ngay chỗ nầy là mối tiếp giáp
giữa 3 con sông Nhà Bè, Sài Gòn và Đồng Nai nên mực nước luôn chảy
nghịch lẫn nhau tạo thành dòng nước xoáy. Tôi sợ nạn nhân có thể bị lót
lường tàu và xà lan, vướng vào chân vịt, nếu họ luýnh quýnh và không
hiểu biết. Vì vậy tôi chỉ để số vòng quay của chân vịt đủ mức cho tàu
đứng yên một chỗ để đón cứu họ.
Lúc
bấy giờ các ghe đóng đáy giàn xây (dòng xoay) tại ngã ba của 3 con sông
cũng túa ra cứu giúp họ. Khi đó, trên tàu và xà lan của chúng tôi đã
cứu được 18 người. Bỗng phía bên sông Nhà Bè (Rạch Bảy) có nhiều tiếng
súng nổ chát chúa và ca nô công an VC tuần tra trên sông từ hướng nhà
máy dầu Navioil cũng như trên Cát Lái chạy đổ xuống, xuôi theo dòng
chảy, chúng bắn vào nạn nhân bơi trên sông không một chút thương tiếc,
và đuổi theo bắn tận nhà máy Silico gần đến vàm sông Phú Xuân, nơi có
căn cứ của bộ đội biên phòng đóng giữ.
Riêng
tàu của chúng tôi bị một tầu tuần tiễu có khoảng 6 công an nhảy lên bắt
những nạn nhân này trói lại bằng dây ở những chiếc phao họ mang trên
người, rồi đẩy họ té xuống tàu tuần cảnh, thấp hơn mặt boong xà lan ít
nhất 2 mét. Khi không còn chỗ chứa các nạn nhân, chúng xô họ trở lại
dòng sông lúc đó đang chảy xiết. Tôi la lên cản ngăn chúng, nhưng chúng
bắt tôi vào trong phòng lái tàu và yêu cầu tôi chạy về cầu bến phá Cát
Lái. Trên đoạn đường không đầy 2 cây số này tôi thấy vô số các túi sách
may bằng nhựa simili và giỏ đệm trôi bồng bềnh trên mặt nước. Chúng ra
lệnh cho tàu chạy chậm lại và dùng vợt chúng tôi thường dùng để vớt lon
nhôm thực phẩm hoặc thức uống của tàu ngoại quốc thường vứt bỏ trôi nổi
trên sông Sài Gòn, để vớt những chiếc giỏ căng phồng này. Chúng tranh
nhau mở ra lục lọi lấy vàng, đô la, đồng hồ ... rồi chia chác nhau ngay
tại chỗ.
Vì
phải chạy chậm để tụi công an vớt những chiếc giỏ trên mặt sông nên 2
giờ sau, tàu chúng tôi mới cặp được bến phà Cát Lái trong khi đoạn đường
không đến 2 cây số mà vận tốc bình thường của tầu tôi là 16 hải lý giờ
(khoảng 25 cây số giờ).
Khi
tàu vừa cập bến, tụi công an bắt chúng tôi lên bờ, lục soát trên tàu,
xà lan và khám xét thân thể của chúng tôi. Đến khoảng 10 giờ tối thì tên
đại tá công an trưởng phòng cứu hoả đến hỏi chúng tôi có thấy điều gì
hay không, có muốn khiếu nại gì không ? Chúng tôi dư hiểu chúng muốn gì,
nên ai cũng phải lắc đầu, "thưa không nghe, không thấy, không biết cũng
như không khiếu nại điều gì". Chúng tôi chỉ xin chúng báo cáo về đội an
ninh bảo vệ của bến cảng Sài Gòn là tàu chúng tôi bị vướng lưới nên
phải lặn gỡ, vì vậy về trễ. Chúng bằng lòng gọi phôn giúp cho việc ấy.
Khi chúng tôi được thả trở lại tàu, trên bến phá, tụi công an đã cho lập
vòng rào an ninh cấm tất cả nhân dân cùng những người không có trách
nhiệm lui tới khu vực ấy. Vòng đai này được kéo bằng kẽm concertina,
phía trong ở giữa bến phá chúng dùng nhưng manh cót quây tròn lại, che
kín những xác người nằm ngổn ngang ít nhất là 150 người. Những xác người
được xếp dài khoảng 30 mét nằm kế bên nhau như cá trong hộp thành 3
hàng. Còn các túi hành lý được chất ngay lên xe truck của công an mà
loại này trước năm 1975 dùng để tịch thu báo chí khi báo chí có nội dung
xuyên tạc vu khống chính phủ VNCH, để làm lợi cho cộng sản.
Sau
đó 2 ngày, đội thuỷ của Cảng Sài Gòn được lệnh điều động tàu của chúng
tôi kéo cần cẩu 100 tấn (có sức mạnh kéo nổi 100 tấn). Cần cẩu nầy
nguyên là của quân vận Mỹ bàn giao lại cho chính phủ VNCH, và sau chuyển
lại cho cảng Sài Gòn xử dụng. Chúng tôi kéo cần cẩu nổi này ra đến Cát
Lái khoảng 10 giờ sáng và người nhái công an (Bắc Kỳ) lặn xuống choàng
dây cáp 16 mm qua tàu Chi Mai để cho cần cẩu trục lên. Nhưng không biết
loay hoay như thế nào đó họ làm mãi không xong, và phải xin toán người
nhái của cảng Sài Gòn đến giúp đỡ. Toán người nhái ốm đói nầy vốn là
những công nhân trên 45 tuổi trước 1975 thuộc Ty Cảng Vụ cảng Sài Gòn,
có nhiệm vụ lặn kiểm tra các đế phao neo (con rùa) trên sông Sài Gòn,
cùng như kiểm tra chân đế cầu tàu trong cảng Sài Gòn. Nhờ toán người
nhái của Sài Gòn trước 1975, công việc trôi chảy, tôi nổ máy đẩy cần cẩu
nổi ra xa, để neo căng cả 4 phía và kéo tàu Chi Mai lên ...
Khi
dây cáp được kéo lên chưa được 3 mét, từ dưới mặt nước nổi vọt lên
những xác người như nhưng trái ngư lôi vừa thoát khỏi bệ phóng. Máu
từ mũi tai của họ trào ra trông thật thảm khốc. Chú Hai Giỏi, cần cẩu
trưởng, người to như cảnh sát motor cycle của Mỹ, cũng phải rụng rời tay
chân không thể tiếp tục giữ cần LIFT và dừng tay lại ngay vị trí nầy.
Bọn công an trên cầu phà bụm tay lại làm loa ra lệnh kéo tiếp nên anh
Sanh phải nhảy lên phòng điều khiển thay thế chú Hai Giỏi ...
Dây
được kéo lên từ từ thật chậm từng tấc cáp mỗi lần chuyển dịch, xác
người tiếp tục vọt nổi lên, Tôi không nhớ rõ lắm vì cảm giác đã chết
cứng tê dại, mắt mở nhưng hình như không còn biết gì cả. Vì đấy là xác
người vô tội bị VC xua đuổi, hoặc lừa đảo, nên họ phải trốn ra nước
ngoài. Họ là những người giàu có, có nhà cửa khang trang, cơ sở máy móc
sản xuất, mà bọn công sản Bắc Kỳ xâm lược đang thèm thuồng muốn chiếm
lấy làm của riêng, nên đã lừa họ mang của cải xuống tàu rồi tìm cách
giết họ để chiếm đoạt của cải.
Khi
tàu nhô cột cờ lên khỏi mặt nước, một thảm cảnh mà suốt 16 năm sống
xuôi ngược trên các dòng sông của VN, bờ duyên hải VN và Philippines tôi
chưa bao giờ trông thấy cảnh tượng như thế. Quý vị à ! Một phụ nữ tay
ôm chặt đứa bé gái khoảng 1 tuổi đã sình chương cuộn tròn như một quày
dừa non. Chiếc áo choàng (pardessus) bằng thứ vải nylon dầy chắc vướng
vào các móc dùng để móc cờ hiệu của tàu hoặc tín hiệu. Trên mặt của nạn
nhân bị tôm cá rỉa mất gần hết một bên mặt ...
Tàu
Chi Mai tiếp tục được kéo lên, trên mặt boong không còn gì tồn đọng.
Trong cabin lái, xác 2 cô gái trẻ ôm nhau chết cứng. Tàu Chi Mai tiếp
tục được đưa lên cao, nước tràn ra từ các lỗ Abblouse (lỗ có kính tròn
để cho thuỷ thủ có thể quan sát bên ngoài hay mở ra để nhận lấy gió khi
những ngày biển êm gió lặng). Nước chảy tràn ra cho thấy bên trong, xác
người dằn xẹp xuống như cá được đóng vào hộp vậy ...
Cuối
cùng tàu Chi Mai được đặt trên boong cần cẩu 100 tấn, sau khi các kè
được chêm chặt 2 bên hông tàu Chi Mai. Chúng tôi thấy bên hông phía tay
phải của tàu Chi Mai có một lỗ thủng to hình dạng tròn méo mó phần phía
trước của lỗ thủng bị tét ép vào phía trong thân tàu chứng tỏ khối thuốc
nổ được đặt từ bên ngoài. Xác người bên trong chắc phải còn đủ cả vì lỗ
thủng nầy, xác người không thể trôi ra được, vì tàu bị chìm nghiêng về
phía nầy, bùn non và đất sét còn bám chặt cả một bên thân tàu.
Xác
người được đưa ra khỏi tàu Chi Mai đưa lên bến phà Cát Lái lập tức các
túi hành lý bị tụi công an VC tịch thu đem lên xe cây ngay lập tức,
không có thân nhân hay bất cứ ai léo hánh ở khu vực nầy. Chỉ huy bốc dỡ
các tử thi nầy là Đại tá VC Đinh Mười, trưởng phòng cảnh sát phòng cháy
chửa cháy thành phố Sài Gòn; và một tên đại tá khác của phòng cảnh sát
trên sông. Lúc bấy giờ bí thư thành uỷ là Võ Văn Kiệt.
Tổng cộng xác chết được đem ra là 426 xác cả nam lẫn nữ. Tôi
đã không dám ăn thịt cá tôm cua hơn nửa năm trời mặc dù lúc bấy giờ
công nhân kỹ thuật thuộc tổng cục đường biển như tôi mỗi tháng chỉ mua
được 2 kí thịt heo cho nhu yếu phẩm mà thôi.
Thằng Lương Văn Út tài công chiếc tàu Chi Mai còn sống nhăn răng tại Sài Gòn. Sau
vụ nổ tàu Chi Mai, Cộng Sản không có cách gì che giấu được, vì hơn 170
hành khách nhà nghèo loại đóng 5 cây vàng cho một đầu người, phải chịu
cảnh đứng ngồi như cá hộp. Họ hiểu đi tàu trong hoàn cảnh đó sẽ
bị ướt lạnh khi trời mưa giông, vì cả 2 thứ nước mưa và nước sóng biển.
Họ chắc chắn hiểu được thân phận, và những rủi ro có thể mang đến cho
họ khi bị say sóng, hoặc sóng to chụp phủ lên tàu có thể cuốn họ xuống
biển, nên họ chịu rất nhiều tổn phí để kiếm mua phao vì thời ấy của đó
là hàng quốc cấm, không có chợ nào được bày bán cả. Ngay cả như tôi,
Thuyền Trưởng tàu kéo cấp Ba (có công suất trên 1200 mã lực) là loại chỉ
đếm trên đầu ngón tay vào năm 1989, vẫn không có áo phao cho cá nhân
của mình nửa đó. Chỉ cấp loại xốp bình cà rem (Styro foam) nhét vào áo
khỉ (monkey vest) như áo bộ đội mang băng đạn AK vậy, nhưng vẫn phải ghi
tên và chức vụ bằng nước sơn đỏ, và điều nầy phòng vật tư của Công Ty
làm sẵn phát cho tàu, nếu bị mất phải làm báo cáo và kiểm điểm như mất
súng vậy.
Chính
các phao nầy đã giúp cho hầu hết những người trên boong nầy thoát ra
khỏi tàu Chi Mai ngay lúc nó nghiêng chìm. Chỉ có những người thông
thuộc với sông nước nên ỷ lại không mặc vào, có thể bị chết, hoặc thoát,
hay tù sau vụ chìm nầy. Điều tôi nói đây có kiểm chứng, vì 4 ngày sau
đó, những xác chết trôi nổi trên sông Nhà Bè, Phú Xuân, Soài Rạp, Lòng
Tàu, cũng như trôi dạt vào những miệng đáy đóng trên sông để bắt tôm cá.
Người dân đã báo cho nhà cầm quyền đem đi mai táng hoặc trả xác lại cho
thân nhân.
Còn
cảnh công an VC bắn vào người vượt biên hôm đó, chính mắt những người
đóng đáy thấy, thuỷ thủ tàu CSG92 và xà lan 64 thấy, công nhân nhà máy
Vavioil và những cư dân trên bờ sông nhà bè phía đèn xanh đều thấy hết.
Chưa hết đâu ! Những người đi « đăng ký », tập trung tại bến xe
Văn Thánh ngoài ngã Ba Hàng Xanh để cho xe bus đưa vào bên phà Cát Lái,
nhưng còn 2 xe bus chót chưa vào tơi bến phà Cát Lái thì mìn đã nổ.
Không biết rằng vì xe bus đến chậm hay thằng công an tay nghề quá zỏm,
gài kim định giờ không chính xác ? ! Điều nầy từng xảy ra trong thời
chiến qua các vụ đặc công VC đánh các cầu Bình Triệu, Bình Lợi, Tân Cảng
... Đặc công VC ôm mìn lội ven sông để gài giật xập cầu, nhưng lội chưa
tới nơi thì mìn phát nổ. Báo chí phổ biến tin tức, lính địa phương quân
giữ cầu đều biết chuyện nầy !
Việc Cộng sản bắn chết người thường dân vô tội đâu có phải là điều hiếm hoi ở trong thời chiến cũng như thời bình.Hơn nữa VC đã dán bản cáo trạng khắp hai miền đất nước rằng «Vượt Biên Là Phản Quốc». Vì vậy chúng sợ ai không dám bắn ?! Hơn nữa VC bắn để cướp của, vì người bị chúng bắn là thành phần tư bản, bị VC ghép vào tội phản quốc bóc lột.
Còn
2 chiếc xe bus chở người vượt biên đến sau, khi thấy tàu Chi Mai bị
phát nổ, bọn công an liền ra lệnh cho quay đầu lên hướng nhà tù Thủ Đức
tạm trú qua đêm và sáng hôm sau chở thẳng lên Bù Đóp nhốt cho đến gần 4
tháng. Sau đó, chúng đưa xuống cù lao Rồng ở Mỹ Tho cho đi bán chính
thức, với điều kiện thêm 3 cây một đầu người.
Ngoài ra, còn vụ cho chìm tàu khách Vũng Tàu tại Ngã Ba Thiềng Liềng năm 1979 để cướp tiền cướp của nữa.
Vụ
này VC bán bãi xong, trở giọng lật lọng bắt khách ra đi đa số là Bắc di
cư năm 1954 và giáo dân ở giáo xứ Tân Định, Bà Chiểu, trong đó có con
của nhạc sĩ Lê Văn Thiện, hoà âm cho ban nhạc Shootgun của ca sĩ Thanh
Thuý.
Thuyền Trưởng Tàu CSG92
No comments:
Post a Comment