Saturday, April 26, 2014

39 năm và con đuờng tiếp tục


30-4

Lại một 30 tháng Tư về!
39 năm, 40 năm và có thể còn lâu hơn, chúng ta mới có cơ hội xem xét lại ngày lịch sử này một cách nghiêm túc, công bằng và hợp lý.
Cái ngày mang tính bước ngoặt của lịch sử, “có triệu nguời vui và cũng có triệu người buồn”. Đất nước thống nhất nhưng lại rơi vào vòng cai quản của chế độ cộng sản, độc quyền, toàn trị, vong bản và phi dân chủ.
Suốt từ năm 1954 trên miền Bắc và từ 30 tháng Tư năm 1975 trên cả nước, Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) cầm quyền, đưa đất nước đi trên con đường “định hướng xã hội chủ nghĩa” vô định.


Bộ máy phát xít
Bộ máy cầm quyền chuyên chính vô sản của ĐCSVN là một dạng thức của chủ nghĩa phát xít. Tôi nói như thế là vì hai hệ thống chính trị (phát xít và cộng sản) có nhiều điểm tương đồng.
Trong đối nội và đối ngoại của cả hai hệ thống áp dụng chính sách khủng bố, đe dọa công chúng. Anh ninh, mật vụ theo dõi toàn bộ xã hội, tìm mọi cách loại bỏ bất kỳ đối thủ chính trị nào. Những ai bị xem là kẻ thù đều bị kết án và giam giữ trong các trại cải tạo lao động. Với phương pháp khủng bố, bẩm báo, gieo rắc nghị kị, nhà cầm quyền đã tạo ra một không khí sợ hãi, không chỉ với kẻ thù mà với cả những người ủng hộ chế độ.
Cũng giống như chủ nghĩa phát xít, chế độ cộng sản thành lập tổ chức thanh niên, dạy dỗ họ rằng đất nước của họ là tươi đẹp nhất và nhồi sọ ý thức hệ toàn trị. Đối với đảng, thanh niên là một tài sản lớn, bởi vì họ là tương lai.
Cả hai hệ thống duy trì một chế độ độc tài, độc đảng, cấm mọi sự tồn tại của các đảng phái chính trị khác.
Bộ máy quyền lực của hai hệ thống được xây dựng dựa trên nguyên tắc cực kỳ tập trung. Công tác tuyên truyền hết sức quan trọng trong một nhà nước độc tài toàn trị. Nhà cầm quyền sử dụng nó để trưng diễn bộ mặt và có thể làm thay đổi thế giới.
Chủ nghĩa độc tài toàn trị hạn chế các quyền cơ bản của con người, ức chế sự phát triển của văn hóa, giáo dục và các giá trị tinh thần của dân tộc, đồng thời gây ra các vụ giết người hàng loạt. Trong mười thập kỷ qua, nhân loại đã trải qua nhiều đau thương, làm thay đổi khái niệm tổng thể về con người và nền văn minh. Chúng đã tác động lớn lên lịch sử và đời sống của nhân dân. Lý do chính của việc này là lợi ích của nhà nước độc tài quan trọng hơn cuộc sống của con người.
ĐCSVN còn đi xa hơn, tệ hại hơn cả chủ nghĩa phát xít. Công an giả mạo thường dân hoặc sử dụng dân phòng, thậm chí giới giang hồ, xã hội đen, côn đồ hoá và lưu manh hoá sự đàn áp.
Ngày 24 tháng 1 năm 2006, Với 99 phiếu thuận và 42 phiếu chống, các nước thành viên Nghị viện châu Âu đã phán quyết chủ nghĩa cộng sản là tội ác của nhân loại.
Tại Ba Lan, một nuớc cựu cộng sản, ở Điều 13 của Hiến pháp mới năm 1997 đặt chủ nghĩa cộng sản bên cạnh chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và cấm mọi hình thức hoạt động, tuyên truyền cho các chủ nghĩa này.

Hoà hợp hoà giải
Không thể hoà hợp hoà giải khi còn chế độ cộng sản. Chế độ này không có nhu cầu hoà hợp hoà giải, mà chỉ làm những động tác lừa mị, dối trá.
Bản thân giữa người Việt với nhau không cần bất kỳ sự hoà giải nào. Hàng năm vẫn có hàng trăm ngàn người Việt từ nước ngoài về thăm quê hương, sinh hoạt bình thường trong cộng đồng. Không có lòng căm thù lẫn nhau trong dân chúng mà chỉ có nỗi đau và lòng căm thù đối với chế độ cộng sản.
Thật khôi hài, gần đây, Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng ngoại giao, Chủ tịch Uỷ Ban người Việt ở nước ngoài, gọi những người tị nạn cộng sản là “nạn nhân của chiến tranh”!
Trừ một số chạy cộng sản trước và trong ngày 30 tháng Tư năm 1975, sau ngày này, cả nước hoà bình, thống nhất, làm gì còn chiến tranh nữa! Thế nhưng, hàng triệu người đã vượt biển, vượt rừng, bỏ nước ra đi, để lại sau lưng khoảng nửa triệu xác chết. Họ không phải là “nạn nhân của chiến tranh” mà là nạn nhân của chính sách giam giữ cải tạo hàng trăm ngàn quân dân cán chính của chế độ Sài Gòn, của chính sách cải tạo công thương nghiệp, tập đoàn hoá nông nghiệp, ngăn sông cấm chợ, cưỡng bức đi kinh tế mới, phân biết đối xử khắt khe với những ai liên quan đến “ngụy”…

Làm sao để có dân chủ
Nếu so với giai đoạn cách đây khoảng một thập niên thì tình hình xã hội Việt Nam có nhiều biến chuyển tích cực hơn.
Năm 2002, Lê Chí Quang chỉ vì những bài báo cảnh giác âm mưu thôn tính Việt Nam của Trung Quốc, mà đã bị kết án nặng nề 4 năm tù, bị đối xữ tệ hại khi bị bệnh, rồi bị chiêu dụ và vô hiệu hoá. Những cảnh báo của Lê Chí Quang đã hoàn toàn chính xác với cuộc tổng xâm luợc mềm của Trung Quốc hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam.
Cùng một thời gian ấy, bác sĩ Phạm Hồng Sơn chỉ vì đã dịch bài “Thế nào là dân chủ” lấy từ trang Web của Toà đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội mà bị kết án “tội gián điệp” với 13 năm tù (phiên tòa phúc thẩm giảm từ 13 năm tù xuống còn 5 năm tù, 3 năm quản chế).
Xã hội Việt Nam giờ đây trưởng thành hơn về ý thức dân chủ và quyền con người. Có nhiều hơn những người dân trong nước ca thán chế độ và phản ứng bất thuận với các chính sách của nhà cầm quyền trên mạng xã hội mà không bị trấn áp.
Một số hội đoàn dân sự ra đời bất chấp ngăn cấm của chế độ như Hội Cựu Tù nhân Luơng tâm, Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam, Văn đoàn độc lập, Hiệp hội Dân oan Việt Nam, Mạng lưới Bloggers Việt Nam…, mặc dù chưa có, hoặc không công khai ban lãnh đạo, hoạt động chưa có tổ chức quy củ, và đa phần đang ở trạng thái vận động, chưa kết tụ thành phong trào xã hội rộng lớn.
Nhà cầm quyền trong tiến trình hội nhập toàn cầu, vì những lợi ích kinh tế, bị áp lực quốc tế, lúc này lúc khác có vẻ “thoáng” hơn một cách khôn ngoan, nhưng vẫn giữ vững thái độ chính trị kiên quyết và dứt khoát với các đối tượng được xem là có thể tạo ra  nguy cơ cho chế độ.
Người Việt ở hải ngoại có vai trò hỗ trợ quan trọng trong việc thông tin và vận động quốc tế, nhưng đất nước đổi thay hay không phụ thuộc vào người dân trong nuớc. Thực tế của các nước cựu cộng sản Đông Âu cho thấy các đảng phái chính trị ở hải ngoại khó mà tìm được vị trí trên sân khấu chính trị khi Việt Nam có bầu cử tự do.
Chỉ khi nào các phong trào dân sự thật sự đi vào lòng người, lan toả rộng khắp, đặc biệt trong hơn 70% dân số sống ở nông thôn và dân lao động thành thị, lúc đó mới có khả năng nổ ra một cuộc cách mạng thay đổi.
Dân chủ sẽ có khi lực lượng đối lập hình thành, áp lực xã hội lớn, cuộc tranh đấu ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng tới nền kinh tế của đất nước. Lúc đó buộc nhà cầm quyền phải đối thoại và chuyển hướng.
Hoàn cảnh thực tế cho thấy không thể dùng biện pháp bạo lực để chuyển hoá chế độ mà chỉ có thể bằng sức mạnh của các cuộc xuống đường bất bạo động, nhiều khi phải chịu hy sinh, tổn thất; song song là sự ứng xử tỉnh táo, sáng suốt của những người đang nằm trong bộ máy cầm quyền. Hai yếu tố này chắc chắn phải đi đôi với nhau thì mới tránh một cuộc đổ máu không cần thiết. Hệ thống chính trị lạc hậu và ảo tưởng “định hướng xã hội chủ nghĩa” phải được huỷ bỏ toàn diện để thay thế bằng một thể chế khác tiến bộ hơn.

Kết luận
Xã hội bị băng hoại đạo đức, thói vô trách nhiệm của nhà cầm quyền, tư tưởng cam phận nô lệ, tội phạm gia tăng mọi nơi, tham nhũng ở mức độ thành những đường dây mafia, nợ nần của đất nước chồng chất…  Tuy nhiên, trong những khó khăn ấy, nhà cầm quyền cộng sản vẫn còn kiểm soát được và vẫn không ngừng sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, độc quyền để tuyên truyền, ngu tối hoá xã hội, và gia tăng bạo lực để củng cố và duy trì chế độ.
39 năm, một thời gian đủ dài dồn nén bất công, chán chường và phi lý để có thể bùng phát một cuộc cách mạng, nhưng nó vẫn nằm trong hy vọng và có lẽ còn phải trải qua khá lâu nữa.

© Lê Diễn Đức – RFA Blog

No comments:

Post a Comment