Hai mươi hai năm sau đó vào giữa trưa
ngày 30-3-1972, nhằm mùa lễ Phục sinh của người Thiên Chúa Giáo, cũng là
ngày thứ năm của tuần Thánh Holly Thursday. Lợi dụng mọi người đang xem
lễ, cầu nguyện trong những giờ phút thiêng liêng, như dịp Tết Mậu Thân
1968. Cọng sản Đệ tam quốc tế Bắc Việt, mở một cuộc tấn công ác liệt
nhất trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1955-1975) vào khắp lãnh thổ
VNCH. Chỉ riêng mặt trận giới tuyến, Hà Nội đã xử dụng một lực lượng
quân sự vô cùng hùng hậu trên 40.000 người, gồm các sư đoàn chủ lực
304,308, năm trung đoàn biệt lập của B-5 là 126,31,246,270, đặc công,
hai trung đoàn chiến xa mang số 203,204 gần 400 chiếc và năm trung đoàn
pháo binh nặng. Tất cả đồng loạt vượt sông Bến Hải tràn qua khu phi quân
sự, pháo tập và tấn công biển người vào lãnh thổ VNCH tại tỉnh Quảng
Trị.
Hai trận chiến trên rất giống nhau và
cũng khác nhau, giồng vì cả hai hiệp định ngưng chiến Cao Ly và Việt
Nam, đều do Liên Hiệp Quốc chủ xướng, được ký tại Postdam (7-1945) và
Genève ( 20-7-1954), trong đó có Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Cộng, Bắc
Hàn, Bắc Việt ký vào văn bản. Còn hai nạn nhân là Nam Hàn và Nam Việt,
chỉ đứng chầu rìa lơ láo bên lề hội nghị, để nuốt máu lệ và nổi nhục
nhược tiểu mà thội.
Riêng Bắc Hàn và Bắc Việt đều là chư hầu
của Nga-Tàu, trước sau và tới bây giờ vẫn là những đảng cọng sản quốc tế
còn sót lại, cuồng tín, cuồng sát và hung hăn hiếu chiến, không thua gì
Trung Cộng. Tất cả những thảm họa chiến tranh, từ mấy chục năm qua trên
bán đảo Dông Dương và Triều Tiên, cũng đều do hai nước cọng sản này gây
nên, qua sự chỉ đạo của đàn anh Nga-Tàu cùng khối xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên cũng có sự khác biệt, đó là ngay khi Bắc Hàn hùng hổ lộng hành
tràn qua vỹ tuyến 38, thì lập tức bị Mỹ và LHQ đánh đuổi trở lại bên kia
giới tuyến. Nhưng đối với hành động xâm lăng trắng trợn của Bắc Việt
thì lại khác, chẳng những không bị các nước đồng chủ tịch, tại hội nghi
Genève 1954 phản đối, mà ngay cả tổ chức Liên Hiệp Quốc cũng im re. Còn
Mỹ thì có gì để nóí, khi Nixon và Kissiger đã quyết định bỏ chạy khỏi
VN. Bởi vậy, Hà Nội càng hung hăng tàn bạo, táng tận lương tâm, pháo
tập, trực xa, chém giết thẳng tay hàng vạn đồng bào vô tội, bị kẹt trong
vùng lửa khói giao tranh, trên khắp các nẽo đường đất nước, mà kinh
khiếp và tàn nhẫn nhất, chắc chắn không đâu có thể sánh nổi với đoạn
đường chín cây số, từ quận Hải Lăng về Mỹ Chánh, thuộc tỉnh Quảng Trị.
Ngậm máu phun người trước dơ miêng mình,
đặt chuyện chụp mũ Mỹ và quân Lực VNCH trong chiến tranh, là một sự
tuyên truyền rất rẽ tiền của Bắc Việt, chẳng những từ trước năm 1975, mà
sau nay các văn nô Hà Nội, trong đó có cán gái Dương Thu Hương ( tiểu
thuyết Vô Đề), đều là chuyện bình thường và xảy ra hằng ngày như cơm
bửa. Bởi vậy giờ đâu còn ai tin những chuyện QLVNCH hãm hiếp, bắn giết
tù binh VC, hay những chuyện quân đội Hoa Kỳ bắn giết bừa bãi thường dân
Việt tại Mỹ Lai-Quảng Ngãi hay mới đây là chuyện Mỹ gài mìn trên cầu
Nogunri ở Bắc Hàn vào tháng 7-1950 trước khi rút lui, làm thiệt mạng
thường dân trên đường chạy loạn hay có thể bị Bắc Cao, xua đi đầu dọn
bãi mìn, như Bắc Việt từng làm tại An Lộc, Bình Đinh, KonTum.. Nhưng dù
có chạy tội cách nào chăng nữa, thì đoạn đường xương trắng máu hồng từ
Hải Lăng về Mỹ Chánh, cũng đã trở nên Đại Lộ Kinh Hoàng, ngàn đời muôn
kiếp, trong bia miệng, bia đời và những trang sử của VN cùng Nhân Loại.
Hãy đọc G.H. Turley, nguyên Đại Tá cố vấn
TQLC, trong tác phẩm The Easter Offensive, thuật lại lời Thiếu Tá Mỹ
tên Sheridan vốn là một nhân chứng trong đoàn quân di tản khỏi thành phố
Quảng Trị không ngờ tôi đã làm nhân chứng, cho một hình ảnh thãm khốc,
của cuộc chiến VN. Các pháo thủ, bộ đội Bắc Việt, với lý do mà tôi
không thể nào giải thích nổi, khi tập trung các loại pháo nặng, thiết
giáp để trực xạ vào đoàn người di tản. Khiến cho hàng ngàn người đã gục
chết oan khiên, trong đó phần lớn là người già yếu, đàn bà và trẻ nít..
.Còn ký giả A.R.Isaaca thì viết vào tháng 6-1972, tôi theo lực lượng
Nhảy Dù của VNCH trở lại tái chiếm Quảng Trị. nên được tận mắt nhìn thấy
những thảm họa của đồng bào khi chạy lánh nạn trên Đại Lộ Kinh Hòang.
Kéo dài hàng chục dặm trên đoạn đường bi thiết trên, toàn là những xác
xe cộ, trong đó nhiều chiếc còn nguyên tử thi của các nạn nhân. Tất cả
đã biến dạng sau hai tháng dầi dầu chịu đựng mưa nắng. Dù quân sĩ cố
gắng chôn cất cho họ, nhưng vì quá nhiều, nên vẫn còn nhiều xác kẹt
trong xe,suốt hai bên đường quốc lộ số 1 .
Nhưng diễn tả đúng mức sự tàn ác dã man
có một không hai của bộ đội Bắc Việt, nhắm vào đồng bào mình, là nhà văn
quân đội Phan Nhật Nam trong tác phẩm Mùa hè đỏ lửa 1972 sự chết trên 9
cây số đường này, là chín cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt
cát, chết trên đầu ngọn lá và vạn vật chết trong lòng ánh sáng, thứ ánh
sáng có mùi người.. .Thê thảm quá, bất lương ghê cho chiến tranh
không biên giới va những người Việt Cộng do Hồ Chí Minh ươn trồng, không
còn một chút tình VN và hơi hám của con người đi bằng hai chân biết
nói.
1 – Quảng Trị, miền địa đầu giới tuyến:
Tỉnh Quảng Trị nằm ngay địa đầu giới
tuyến ngăn đôi đất nước bởi dòng Bến Hải. Đây là một con sông nhỏ phát
nguyên từ dãy Trường Sơn, chảy ra Đông Hải tại cửa Tùng. Tỉnh bắc giáp
quận Vĩnh Linh phía bên kia giới tuyền, tây giáp Lào, phiá nam là tỉnh
Thừa Thiên và phía đông là biển. Trước khi xãy ra trận mùa hè năm 1972,
tỉnh Quảng Trị có diện tích 3966 km2, dân số 270.984 người. Sau khi kết
thúc trận chiến mùa hè vào tháng 9-1972, diện tích Quảng Trị chỉ còn có
164.900 km2, với ba quận Triệu Phong, Mai lĩnh và Hải Lăng nhưng dân số
tới 202.338 người. Điều này cho thấy, Bắc Việt gây chiến tranh, chỉ
chiếm được đất chứ không bao giờ thu phục được nhân tâm, bởi sự tàn ác
dã man của bộ đội miền bắc, đi tới tâu, thì đồng bào đều phải bỏ của để
chạy lấy mạng.
Rừng núi Trường Sơn chiếm 2/3 lãnh thổ
tỉnh, chạy dài từ bắc tới nam. Tỉnh có ba con sông chính là Bến Hải,
Thạch Hản và Mỹ Chánh mà cả ba đã vô tình qua sự sắp xép của lịch sử,
trở thành ba con sông biên giới trong các giai đoạn chiến tranh VN. Tỉnh
còn có hai quốc lộ 1 và 9, cũng là hai chứng tích lịch sử về việc đồng
bào chiến nạn tỉnh Quảng Trị bị thảm sát.
Quảng Trị du nhập vào Mẹ VN từ năm 1069
khi vua Lý Thánh Tôn, thân chinh đánh Chiêm Thành bắt được vua Chàm là
Chế Củ. Để chuộc mạng, vua dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chánh (tức
Quảng Bình và một phần Quảng Trị ngày nay ). Sau đó vào năm 1306 Huyền
Trân Công Chúa vì nước quên mình, chịu gã cho vua Chế Mân, để đem về cho
Đại Việt hai châu Ô và Lý. Hai châu này sau đó được vua Trần Nhân Tông,
đổi thành đất Thuận-Hóa vào năm 1307. Các quận Triệu Phong, Mai Lĩnh và
Hải Lặng ngày nay là đất Hóa thời nhà Trần. Quảng Trị cũng là đất khởi
nghiệp của Họ Nguyễn, khi Chúa Nguyễn Hòang được vào trấn thủ Thuận Hóa
vào tháng 10 năm Mậu Ngọ (1588). Ông lập dinh tại Ái Tử, quận Triệu
Phong. Vì là đất cổ của Đại Việt, nên Quảng Trị có nhiều di tích lịch sử
như đền thờ Trần Nhật Duật, thành Tân Sở nơi vua Hàm Nghi xuất bôn
xuống hịch Cần Vương chống Pháp vào năm 1885, Vương Cung Thánh Đường La
Vang (Mai Lĩnh), cổ thành Đinh Công Tráng.
Thành cổ Đinh Cộng Tráng được xây dựng từ
năm 1823 thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn đắp bằng đất. Năm 1838, thành
được xây lại bằng đá gạch, với chu vi 481 trượng 6 thước, cao 1 trượng,
dày 3 trượng. Thành có 4 cửa, chung quanh được bao bọc bởi vòng hào,
rộng 4 thước, sâu 8 thước. Trước năm 1972, thành cổ là doanh trại của sư
đoàn 101 không kỵ Hoa Kỳ. Vào năm 1972, trong cổ thành có Tiểu Khu
Quảng Trị và Bộ Tư Lệnh của Sư đoàn 3 bộ binh. Tóm lại đây là một công
thự phòng thủ quân sự kiên cố, nhất là trung tâm hành quân của tướng Vũ
Văn Giai tư lệnh SD3BB, cũng là tư lệnh chiến trường miền giới tuyến
Quảng Trị, trong trận mùa hè năm 1972.
Làm như để đáp ứng cùng với chính phủ Hoa
Kỳ trong các cuộc họp mật khi quân Mỹ lần lượt rút khỏi Nam VN, cọng
sản Bắc Việt cũng đóng kịch giảm quân và cường độ tấn công vùng giới
tuyến, so với những năm về trước. Do trên, các cấp lãnh đạo VNCH, từ
trung ương tới quân đoàn I, đã tin tưởng là Hà Nội sẽ chẳng bao giờ có ý
đồ tấn công qua sông Bến Hải. Đây chính là lý do đã giao trọng trách
phòng thủ miền giới tuyến, cho một sư đoàn bộ binh tân lập, chỉ mới hính
thành được vài tháng. Đó là sư đoàn 3 bộ binh, thành lập cuối năm 1971
có quân số vào khoảng 11.203 người. Trong các đơn vị cơ hửu, chỉ có
Trung Đoàn 2 BB rất thiện chiến, vì là một đơn vị tác chiến lâu đời của
Sư đoàn 1 BB lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai trung đoàn 56 và 57
tân lập mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào binh, quân dịch và
các đơn vị DPQ + NQ Vùng 1 chiến thuật.. Sư đoàn cũng chưa có kinh
nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng..
Quảng Trị lúc đó, được tăng phái thêm Lữ
đoàn 147 TQLC của Trung Tá Nguyễn Năng Bảo đóng tại Mai Lộc về phía tây
tỉnh, với trách nhiệm phòng thủ các căn cứ Ba Hô, Sarge, Holcomb và
Phượng Hoàng. Riêng SD3BB phòng thủ vỹ tuyến: Trung đoàn 56BB đóng trong
căn cứ hỏa lực Carroll lớn nhất tỉnh, do Trung Tá Phạm văn Đính chỉ huy
trách nhiệm phòng thủ các căn cứ Fuller, Khe Gió tiếp cận với Lử đoàn
147 TQLC.. Trung đoàn 2 BB đóng tại căn cứ A-4 (Cồn Thiên) và Trung đoàn
57BB trách nhiệm căn cứ C-1 (Gio Linh), chạy tới cầu Hiền Lương trên
quốc lộ 1, về tới căn cứ Ái Tử.. Phía bên kia quốc lộ tới biển, do lực
lượng DPQ+NQ tỉnh Quảng Trị bảo vệ.
2 – Trận chiến mùa hè 1972 tại Quảng Trị:
Đúng 12 giờ trưa ngày 30-3-1972, đại
tướng Võ Nguyên Giáp tổng tư lệnh quân đội miền Bắc khai pháo mở màn
chiến dịch Nguyễn Huệ, xua 40.000 quân vượt vỹ tuyến 17, cũng là con
sông Bến Hải, tấn công QLVNCH trong tỉnh Quảng Trị. Để mở đường qua
sông,, pháo binh cọng sản, vói các loại đại bác nòng dài 130 ly, cũng
như hỏa tiển 122 ly, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn
phá tất cả các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng
chưa từng có.
Ngay lúc hai Trung đoàn 2 và 56/SD3BB
đang hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, đồng thời
làm cho tinh thần binh sĩ nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh và hoảng
sợ. Sau đó bộ binh, chiến xa Bắc Việt, từ bốn hướng tấn công đồng loạt,
mục đích không cho QLVNCH tiếp ứng lẫn nhau, khiến cho các căn cứ hỏa
lực lần lượt thất thủ, vì pháo kích và các cuộc tấn công biển người..
Tuy nhiên quân cọng sản cũng vấp phải sự chống cự mãnh liệt khắp nơi,
nhất là tại các căn cứ của Lữ đoàn 147 TQLC và Trung đoàn 2BB. trấn giữ.
Đại chiến long trời lỡ đất khắp nơi tại Quảng Trị, dù được khẩn báo về
Sài Gòn và Đà Nẳng, nhưng lúc đó dường như cả hai cấp chỉ huy quân sự
cao nhất, vẫn còn chưa tìn là Hà Nội dám vượt sông Bến Hải. Chính điều
này, đã làm cho bao nhiêu sinh mạng của đồng bào và người lính, chịu
thương vong oan khiên, trên các con đường di tản trước biển giặc.
Mãi tới 6 giờ chiều ngày 30-3-1972, Lử
đoàn 258 TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48 mới được tăng cường cho
SD3BB tại mặt trận Đông Hà. Ngay lúc đó, SD308 cọng sản đang tấn công
Tiểu đoàn 4 TQLC tại hai căn cứ Sarge và đỉnh núi Ba Hô. Còn SD304 thì
tấn công Tiểu đoàn 8 TQLC tại căn cứ Holcomb. Thời tiết lại quá xấu, nên
không quân không thể yểm trợ hỏa lực cho các căn cứ trên, còn hải pháo
cũng chỉ yểm trợ tới các căn cứ hỏa lực ở phía đông gần biển mà thôi.
Riêng các Pháo đội đại bác 105,155 kể cả 175 ly của VNCH, cũng không thể
đương đầu nổi với hàng trăm khẩu pháo nặng 130 ly của Bắc Việt.
Rồi thì căn cứ Ái Tử, nơi đặt Bộ Chỉ Huy
tiền phương của SD3BB cũng bị pháo kích nặng nề. Đồng bào từ các quận
Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Đông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ
làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh
chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng ngàn người đã làm mồi cho đạn pháo
bình và thiết giáp của bộ đội miền Bắc, gây thêm rối loạn cho các đơn vị
của ta, vì vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc
trong cơn nguy ngập.. Đạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn,
phá hết tất cả, không cần phân biệt xóm làng, chùa nhà thờ, dân lính,
thành phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam
Lộ, Đông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một ai có thể
ngờ tới.
Ngày 31-3, căn cứ hỏa lực của TD4 TQLC
tại núi Ba Hô và Sarge bị tràn ngập, phải di tản vào lúc 9 giờ 40 tối,
sau khi hứng chịu nhiều thương vong. Ngày 1-4, các căn cứ Đông Hà, Cam
Lộ, Ái Tử bị pháo kích nặng nề nhưng cọng sản vẫn chưa chiếm được, nhờ
hải pháo của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị, bắn vào
yểm trợ., trong lúc thời tiết càng xấu thêm, nên không quân không thể
yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4
do SD3BB trấn giữ, bị tấn chiếm, còn căn cứ Fuller và Khe Gió thì di
tản chiến thuật. Căn cứ Holcomb của TD8TQLC, bị tràn ngập lúc 12 giờ 30
khuya đêm 2-4. Tình hình chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc tình cảnh
của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm, khiên cho các cấp chỉ huy
của SD3BB và Tiểu Khu Quảng Trị, gần như bó tay, vì không tìm ra kế
hoạch nào, để ổn định tình thế.
Rồi Bộ Tư Lệnh tiền phương của SD3BB được
lệnh rút về thành phố Quảng Trị. Lử đoàn 258 TQLC, được tăng cường thêm
TD3PB/TQLC và TD7TQLC, lãnh thêm nhiệm vụ phòng thủ căn cứ Ái Tử. Trong
lúc đó căn cứ hỏa lực Carroll của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn nhưng
không có quân tiếp viện. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio
Linh, rút về bờ nam Đông Hà, để lại cho giặc nhiều khẩu đại bác 155 ly.
6 giờ 30 sáng ngày 2-4-1972, bổng có tin
TQLC Hoa Kỳ đã đổ bộ vào bờ biển Quảng Trị, để tiếp viện cho QLVNCH. Tin
trên làm cho quân dân trong tỉnh vô cùng phấn khởi nhưng Hà Nội biết
trước là tin vịt, nên càng tấn công mạnh khắp nơi. Cùng ngày TD3TQLC và
Thiết đoàn 20 chiến xa M48, được lệnh giữ cầu Đông Hà. Trận chiến trở
nên ác liệt, vì bộ đội và chiến xa cọng sản, chuẩn bị vượt cầu Đông Hà.
Ngày 3-4, Trung Đoàn 2BB bị bộ đội Bắc Việt truy đuổi khi rút về Cam Lộ,
nên không kịp dùng mìn phá cầu. Tại căn cứ Carroll, do Trung Tá Phạm
Văn Đính chỉ huy, gồm Trung đoàn 56BB, các pháo đội diện địa, TD1 Pháo
binh TQLC, tổng cộng quân số trên 2000 người, kéo cờ trắng đầu hàng quân
Bắc Việt. Đây là trường hợp duy nhất, trong cuộc chiến Đông Dương lần
2. Tình hình đã quá nguy ngập, nên cầu Đông Hà được lệnh giật xập, chận
được bước tiến của giặc trong một thời gian ngắn. Lử đoàn 369 TQLC lại
được tăng cường thêm cho Quảng Trị.
Ngày 4-4, Lử đoàn 147 TQLC cũng phải bỏ
luôn căn cứ Mai Lộc, vì không chịu nổi pháo kích và chiến thuật tấn công
biển người. Vì quân số bị hao hụt quá nhiều, nên lử đoàn này được lệnh
về Huế bổ sung và tái trang bị.. Riêng TD7 TQLC vì quân số còn nguyên
vẹn, nên được lệnh giự còn đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng về Mỹ
Chánh. Như vậy về phía tây, chỉ còn có TD1 TQLC, trấn giữ căn cứ Phượng
Hoàng, làm tiền đồn, bảo vệ thành phố mà thôi.
Do tình hình quá khẩn cấp và nguy ngập,
nên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 tăng cường thêm cho Quảng Trị nhiều đơn vị.
Như vậy tính đến ngày 5-4, chiến trường này có 2 Trung đoàn bộ binh của
SD3 là 2 và 57, hai Lử đoàn 258 và 369 TQLC, bốn Liên Đoàn Biệt Động
Quân, hai Thiết đoàn 17 (M113) và 20 (M48), 24 Tiểu đoàn Địa Phương Quân
+ NQ và 8 Tiểu đoàn Pháo binh. Nhưng vì lệnh chỉ huy không thống nhất,
giửa Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư lệnh QĐ1) từ Đà Nẳng và Chuẩn tướng Vũ Văn
Gian (Tư lệnh SD3BB) tại chiến trường, khiến cho tình thế đã không được
ổn định, mà càng gây thêm rắc rối trên khắp các mặt trận. Cuối cùng
Quảng Trị đã thất thủ, chỉ sau mấy ngày bị pháo kích, đã ban lệnh di
tản.
Ngày 8-4, sau mấy ngày bị tổn thất vì mưa
pháo, TD 3 TQLC phải hoán chuyển về Ái Tử và Biệt Động Quân ra thay thế
giữ bờ nam Đông Hà. Tại căn cứ Phượng Hoàng, cọng sản đã thảm bại khi
trực chiến với TD6 TQLC, thiệt hại hơn một trung đoàn bộ đội, 21 chiến
xa T54 bị cháy, phần lớn do Không quân Việt-Mỷ oanh kích, bãi mìn cùng
pháo binh. Hai chiếc T54 khac bị bắt sống đem về thành phố Quảng Trị.
Nhưng sau đó, TD6 TQLCH cũng được lệnh bỏ căn cứ Phượng Hoàng vào ngày
12-4.
Một cuộc hành quân đại qui mô do Trung
tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ Huy, mang tên Quang Trung 729, khai diễn ngày
14-4 với mục đích tái chiếm các căn cứ ở phía tây đã mất. Cùng lúc, cọng
sản Bắc Việt đã mở ba cuộc tấn công lớn vào Ái Tử, Đông Hà và căn cứ
Anne ở phía nam, đối diện với quận Hải Lăng. Mục đích là muốn cắt đứt
con đường huyết mạch của QLVNCH, từ Quảng Trị về Huế. Để chống lại âm
mưu trên, tướng Giai chia các lực lượng đang tham chiến tại đây thành 5
chiến đoàn đặc nhiệm: Trung đoàn 57 BB giữ bờ nam sông Đông Hà. Thiết
đoàn 1 + 20 + 2 Lừ Đoàn 4,5 BDQ do Đại tá chỉ huy trưởng LD1 TG chỉ huy,
tái chiếm căn cứ Carroll. Lử đoàn 258 TQLC từ Ái Tử, tái chiếm căn cứ
Mai lộc. Trung đoàn 2BB giữ mặt trận từ Ba Lòng tới bờ tây sông Thạch
Hản, ngăn không cho quân Bắc Việt tấn công thành phố. Cuối cùng là Liên
Đoàn I BDQ, gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77, giữ con đường huyết mạch từ
Quảng trị tới quận Hải Lăng. Chiến cuộc thật sự bùng nổ lớn, tất cả các
cánh quân đều chạm địch và bị pháo kích nặng nề. Bởi vậy thay vì quân ta
tấn công, lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số này, nguy
khổn nhất là cánh quân của LD5 BDQ và Thiết đoàn 20 chiến xa. Tuy nhiến
tính đến ngày 18-4, các đơn vị của QLVNCH vẫn còn giữ vửng đựợc các vị
trí chịu trách nhiệm.
Ngày 22-4, Lử đoàn 147 TQLC sau khi được
bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị, thay thế LD 258
TQLC phòng thủ căn cứ Aí Tử. Trong đêm CS pháo kích làm nổ kho tiếp liệu
của SD3BB tại La Vang, trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp
tế quân trang dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Đà Nẳng tới. Nyày 23-4,
bất chấp sự thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ vừa qua với
QLVNCH, Không quân và Hải pháo của Việt-Mỹ, Cọng sản Hà Nội vẫn điên
cuồng tấn công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người
của cả hai phía, trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn.
Trong lúc đó gần tháng qua, người lính
Miền Nam các cấp, từ TQLC,BDQ, Thiết Giáp, Bộ Binh, DPQ + NQ.. ngày đêm
thiếu ăn mất ngủ, chỉ đứng dưới giao thông hào, chịu pháo, chịu đạn giữa
rời mưa gió. Cùng lúc khắp các nẽo đường Quảng Trị, đồng bào chiến nạn
gục chết thê thảm bởi cảnh pháo kích bừa bãi của bộ đội Bắc Việt. Quảng
Trị đã thật sự trở thành địa ngục trần gian thứ hai sau An Lộc tỉnh Bình
Long cũng đang bị CS tấn công vây khổn.
Ngày 27-4, tất cả nòng súng đại pháo của
quân Bắc Việt, đều tập trung vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận
Mai Lỉnh, Hải Lăng. Trong lúc đoàn người tị nạn thay vì tâp trung tại
Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tị nạn, gây cảnh hổn loạn
trên quốc lộ 1. Các cánh quân cũng bắt đầu náo động vì vợ con tan tác
chạy lánh nạn. Do đó nhiều đơn vị đã tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh
SD3BB cũng là đầu nảo chiến trường, mất liên lạc với một số lớn đơn vị
trực thuộc.
Đúng lúc, kho đạn lớn trong căn cứ Ái Tử
lại phát nổ. Ngày 28-4, trước áp lực của đích, cánh quân của Liên Đoàn
5BDQ và Thiết Đoàn 20 rút về phía bên kia cầu Vĩnh Phước nhưng bị pháo
130 ly của Cọng sản bắn sập cầu, khiến nhiều xe M48 và đại bác 105,155
ly bỏ lại bên bờ Bắc. Cũng từ phút đó, các cánh quân còn lại của LD4,5
BDQ, LD 1 Thiết kỵ và Trung Đoàn 57 BB, phải lui về phòng thủ căn cứ Ái
Tử và thành phố Quảng Trị.
Ngày 29-4, lúc 2 giờ sáng, cọng sản tấn
công Trung đoàn 2BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ ở phía tây thành phố,
trong lúc đó về phía bờ biển, cọng sản với bộ binh có chiến xa lội nước
PT76, tấn cọng các Tiểu đoàn DPQ + NQ của Tiểu Khu Quảng Trị. Tình trạng
hổn loạn khắp nơi, khiến cho Tướng Giai phải quyết định bỏ căn cứ Ái
Tử, rút hết về bờ nam sông Thạch Hản phòng thủ. Lúc đó Trung đoàn 57 BB
coi như tan hàng, vì hầu hết binh sĩ đã rã ngủ, để chạy theo gia đình
đang di tản về Huế.
Quốc lộ số 1 đã bị cọng sản đóng chốt
nhiều đọan, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, vì Tiểu đoàn 7 TQLC bị chuyển ra
phòng thủ căn cứ Ái Tử. Do đó đoạn đường huyết mạch, chì có chín cây số,
bị bỏ ngỏ để quân cọng sản đóng chốt, đã trở thành con đường xương
trắng máu hồng., mà bia miệng và sử liệu gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng hay là
Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè Năm
1972.
3 – Rút bỏ Quảng Trị:
Ngày 30-4, tư lệnh chiến trường kiêm tư
lệnh SD3 BB là chuẩn tướng Vũ văn Giai, triệu tập phiên họp đặc biệt và
quan trọng, để bàn kế hoạch giữ thành phố Quảng Trị và bỏ căn cứ hỏa lực
Ái Tử. Do đó, trong cuộc lui quân, LD 147TQLC và TD2.Pháo binh/TQLC,
với quân số trên 2000 người, khi quân qua cầu Thạch Hản thì cầu bị xập,
khiến cho một số lớn chiến xa, xe cộ, đại bác và quân trang dụng.. phải
bị bỏ lại phía bên kia cầu cho cọng sản.
Lúc đó Lử đoàn 369 TQLC được tăng cường
với nhiệm vụ, giữ mặt tây từ sông Ô Khê tới đầu cầu Mỹ Chánh, ranh giới
hai tỉnh Thừa Thiên-Quảng Trị. Đồng thời phải giải tỏa quốc lộ số 1,
đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, đang bị quân cọng sản chiếm và đóng chốt.,
nhất là cầu sông Nhung, nằm giữa quốc lộ 1. Tình trạng này, đã làm gián
đoạn giao thông, đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số. Đây
là mục tiêu chính, để quân Bắc Việt, tha hồ tác xạ dữ dội và tàn nhẩn,
bằng đủ loại súng lớn nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác tới thiết
giáp. Hàng ngàn xe cộ, quân xa cũng như xe dân sự, đồng bào, lính tráng
chết thảm thương trong những xác xe cháy nằm la liệt khắp đường. Chỉ
những kẻ biết bơi lội, mới sống sót được khi bơi qua sông Nhung, chạy về
Mỹ Chánh.
Ngày 1-5-1972, tướng Giai tuyên bố bỏ
thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật. Tin trên chẳng những làm mười
bảy triệu dân miền Nam đau xót bùi ngùi, mà còn khiến cho toàn thể thế
giới sửng sốt. Tất cả không ai tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị, lại
bị lọt vào tay giặc một cách quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh
hồn bạt vía, trời long đất lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kon
Tum và nhất là địa ngục An Lộc lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại
pháo và bị vây khổn giữa chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém
đá.
Theo Lê Huy Anh Vũ, Trung tá thuộc phòng
điện ảnh quân đội, một nhân chứng trong ba ngày cuối cùng tại Bộ tư lệnh
SD3BB, đã viết tướng Giai có hứa với thuộc hạ, là sẽ cùng với họ đi bộ.
Nhưng cuối cùng tướng tư lệnh đã thất hứa, đã cùng với các cố vấn Mỹ và
một ít sĩ quan tham mưu thân cận, lên trực thăng bay về Huế lúc 16 giờ
40 cùng ngày. Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị, một căn cứ hỏa lực và
phòng thủ vững chắc gấp 100 lân thị xã An Lộc, bị bỏ ngỏ và lọt vào tay
cọng sản Bắc Việt, tối ngày 2-5-1972.
Giữa lúc đó, cánh quân còn lại tại Quảng
Trị, gồm Lữ đoàn 147 TQLC, Liên đoàn 1, 4 Biệt động quân và các đơn vị
của SD3BB, vừa phải bảo vệ dân chúng di tản, vừa mở đường máu, vừa đụng
độ và lãnh đạn pháo kích nặng nề của giặc nhưng cuối cùng cũng đã thoát
được về Huế, sau khi lãnh chịu nhiều thương vong thê thảm. Như vậy tính
đến ngày 2-5-1972, tỉnh Quảng Trị coi như hoàn toàn bị Bắc Việt cưởng
chiếm.
Nhưng sau đó giặc từ bộ đội, chiến xa,
pháo binh kể cả đặc công, đã hoàn toàn bị chặn đứng bên bờ bắc sông Mỹ
Chanh, bởi Lử Đoàn 369 Thủy quân lục chiến, do Đại tá Phạm Văn Chung chỉ
huy. Nhờ Lữ đoàn này ngăn được bước tiến của quân Bắc Việt, nên Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn 1, với vị Tư lệnh mới là Trung tứơng Ngô Quang Trướng
(thay tướng Hoàng Xuân Lãm), mới có đủ thì giờ chỉnh đốn lại các đơn vị
và mở cuộc tấn công tái chiếm Quảng Trị. Sau đó thành cổ Dinh Công Tráng
cũng được hoàn toàn giải phóng,vào đêm 14-9-1972, khi người lính của
Đại Đội 3, Tiểu đoàn3 TQLC, treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, của Quốc
Dân VNCH trên kỳ đài. Những tên bộ đội cuối cùng của Trung đoàn 48 cọng
sản, lội sông trốn chạy về bờ Bắc Thạch Hản, sau 82 ngày bám trụ.
4 – Nguyên nhân và hậu quả cuộc chiến 1972:
Đầu năm 1972, Hoa Kỳ đang bước vào chu kỳ
mới với việc tổng thống Nixon ra tranh cử nhiệm kỳ hai, trong lúc hòa
đàm tại Ba Lê giữa Mỹ và Bắc Việt lại bế tắc. Cùng lúc phong trào phản
chiến, do trí thức, báo chí, truyền thanh truyền hình Mỹ chủ xướng, đang
dân cao, còn quốc hội Mỹ, dưới sự chi phối của đảng dân chủ, lần lượt
cắt bỏ quyền của tổng thống Nixon, đối với sự tham chiến tại VN. Cuối
cùng quân Mỹ và Đồng Minh rút hết về nước, QLVNCH bị cắt giảm hỏa lực và
quân trạng dụng. Đó là những lý do khiến Hà Nội đốt giai đoạn, vượt
tuyến tấn công ào ạt vào khắp lãnh thổ VNCH vào mùa hè năm 1972 để dành
ưu thế trên bàn hội nghị Ba Lê sắp tới.
Nhưng dù đã được Nga-Tàu quân viện và bán
chịu cho một số lượng quân dụng khổng lồ, tối tân như chiến xa T54,55,
PT76, đại bác 130,155 ly, súng phòng không 23,57 và hoả tiển tầm nhiệt
SA 7 (nợ chiến phí này ngày nay VC đem đất đảo biển VN trả nợ cho Tàu
đỏ. Cho mươn Cam Ranh và liên doan khai thác dâù hoa với Nga Sô để trả
nợ). Đồng thời xử dụng hết số 13 sư đoàn tác chiến tại miền Bắc, quân số
trên 136.400 người, bất thần mở cuộc tấn công khắp lãnh thổ VNCH.. Y
chang như trận Tết Mậu Thân 1968, Bắc Việt chỉ thắng lợi lúc ban, sau đó
đại bại hầu hết trên khắp các mặt trận, cho dù đại tướng Võ Nguyên
Giáp, đã xử dụng binh pháp của Liên Xô, tận dụng triệt để hỏa lực của
đại pháo, xe tăng và biển người, với mục đích đè bẹp nhanh chóng QLVNCH.
Đối với Hoa Kỳ khi nhận được tin Bắc Việt
vượt vỹ tuyến 17, qua sông Bến Hải và biên giới Lào-Miên tấn công miền
Nam. Tổng thống Nixon họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, quyết định cho phép
Hải Không Quân Hoa Kỳ trở lại yểm trợ hỏa lực cho QLVNCH. Nhưng bộ binh
không được tham dự, đồng thời cuộc rút quân Mỹ về nước vẫn tiếp tục.
Do đó Mỹ bắt đầu gia tăng các lực lượng
yểm trợ, chiến đấu tại VN. Hai hàng không mẫu hạm Constellation và Kitty
Hawk, trở lại tăng cường cho hai Hàng không mẫu hạm Corral Sea và
Hancook, cùng một số lớn tàu tuần duyên, khu trục hạm, có mặt quanh Cửa
Việt trên 20 chiếc. Về Không Quân, từ ngày 15-4-1972, phi đoàn 35 chiến
thuật, cùng với 3 phi đoàn F4 của TQLC Mỹ, đều trở lại VN. Đồng thời tất
cả B52 tại hai căn cứ Anderson Field (Guam) và Utapao (Thái Lan), gồm
38 chiếc cũng được lệnh yểm trợ cho chiến trường VN. Ngoài ra, tổng
thống Nixon còn ra lệnh vào ngày 2-5-1972, mở chiến dịch Linebacker 1,
tái oanh tạc miền Bắc, nhất là tại Hà Nội, Hải Phòng. Đồng thời thả mìn
và thủy lôi, phong tỏa các cửa sông, cửa biển của Bắc Việt, ngăn chận
các tàu thuyền của Nga,Tàu và các nước Đông Âu, tiếp tế vũ khí đạn dược,
cho cọng sản Hà Nội. Sau đó mở thêm chiến dịch Linebacker II, kéo dài
trong 11 ngày đêm, từ 18/12 đến 29-121972, tàn phá miền Bắc rất nặng nề,
khiến cho Hà Nôi phải trở lại bàn hội nghị tại Ba Lê với Mỹ.
Theo J.Pimlott trong tác phẩm Vietnam The
Decisive Battles, thì cuối tháng 9-1972, cọng sản Bắc Việt thương vong
khoảng 100.000 người. Riêng VNCH, dồng bào và lính chết chừng 50.000
người. Nhưng theo W.H Morrison trong The Elephant & The Tiger thì
Cọng sản Bắc Việt chẳng những đã thất bại về quân sự, mà còn không đạt
được mục tiêu chính là dành dân chiếm đất, trừ tỉnh Quảng Trị bị tạm
chiếm trong lúc đầu. Tướng Võ Nguyên Giáp bại trận và danh liệt từ đó
cho đến ngày nay, vì đã lầm lẫn khi hoạch địch kế hoạnh tấn công. Không
biết xử dụng nhị thức Thiết giáp-bộ binh như các tướng lãnh VNCH lừng
danh: cố đại tướng Đổ Cao Trí, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn và Chuẩn
tướng Trần Quang Khôi. Đã đánh giá sai lầm tinh thần chiến đấu của
QLVNCH, dù đã bị đánh lén cũng như bị thua thiệt về hõa lực. Sau hết là
ảo tưởng rằng khi bộ đội đếu đâu, dân miền Nam sẽ đồng khởi, lật đổ
chính quyền. Nhưng mọi sự hoàn toàn trai ngược, vì cọng sản tới đâu, dân
miền Nam bỏ chạy tới đó, do trên bộ đội tức giận, thẳng tay bắn giết
đồng bào mà chúng gọi là nguỵ dân.
Trong trận chiến này, VNCH có hai sư đoàn
bộ binh bị tan hàng. Đó là SD22 BB ở Tân Cảnh (Kon Tum) và SD3BB tại
Quảng Trị. Nhưng sự tan hàng và cung cách hành xử của hai tư lệnh sư
đoàn trên, cũng khác biệt. Tại Kontum, lúc 2 giờ sáng ngày 24-4-1972,
cộng quân tràn ngập căn cứ Tân Cảnh, do SD22BB trấn giữ. Đại Tá Lê Đức
Đạt, tư lệnh của SD, đã từ chối lời mời của Đại tá cố vấn Mỹ là Kaplan,
lên trực thăng cấp cứu của cố vân Mỹ tại QDII là Paul Vann. Ông cũng
không cầu cứu với Tướng Ngô Du, Tư lệnh Quân Đoàn, chịu ở lại, để cùng
chết với binh sĩ của SD22BB. Riêng SD3BB, trừ Trung đoàn 2BB, còn lại
hai Trung đoàn 56 và 57, chưa đụng trận mà chỉ bị pháo kích, đã náo loạn
và bỏ chạy. Còn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh SD, hứa ở lại để cùng di tản
bộ với đơn vị. Nhưng rồi lại thất hứa, leo lên trực thăng để di tản với
cố vấn Mỹ lúc 16 giờ 40 phút ngày 1-5-1972, bỏ lại binh sĩ của Bộ Tư
Lệnh và Đại Đội Tổng Hành Dinh của SD3BB, như rắn mất đầu, phải chạy
theo Thiết Đoàn 18 về Huế.
Ngoài ra cũng còn rất nhiều chuyện lạ,
như lúc quân Bắc Việt qua sông Bến Hải, tràn ngập và tấn công QLVNCH,
thì người Mỹ lại dở trò chủ nhân, làm cho VNCH đang lúc nguy khôn lại
càng tận tuyệt. Theo Turley trong The Easter Offensive, thì việc Bộ tư
lệnh KQ Mỹ, cấm tác xạ vào vùng phi quân sự, tại miền Bắc tỉnh Quảng
Trị, trong phạm vi đường kính 27 km, khi tung tin chiếc phi cơ EB66 của
một Đại Tá Hoa Kỳ, bị hỏa tiển Sam, của cộng quan bắn hạ tại vùng Cam
Lộ.
Lệnh này được thi hành suốt 12 ngày đầu
của trận chiến vùng hỏa tuyến., tạo cơ hội cho Hà Nội mở một hành lang
an toàn, khi di chuyển qua vùng giới tuyến mà không bị máy bay hay pháo
binh của ta oanh tạc và tác xạ. Tại căn cứ hỏa lực Ái Tử, trong lúc
QLVNCH đang bị giặc vây khổn và pháo kích tơi bời, lại nhận được thông
báo từ các cố vấn, rằng B52 sẽ đến thả bom san bằng, khiến cho BTL /
SD3BB phải cấp tốc ban hành lệnh di tản chiến thuật. Đó là tất cả những
chuyện khôi hài, cười ra nước mắt, khiến cho ai đọc tới, cũng phải chua
xót và tủi hổ cho thân phận nhược tiểu VN.
Sau hết là cái tình yêu thương giữa đồng
bào và người lính trận trong cơn hoạn nạn, cũng được thể hiện một cách
trọn vẹn, qua cuộc chiến 1972. Chính tại những miền đạn bom lửa máu này,
những chổ không bao giớ có bóng dáng các vị trí thức, giáo sư, nhà báo,
ký giả đi ăn mày hay nhà văn nhà thơ gì gì đó, mà chỉ có người dân cùng
người lính chia nhau niềm đau khổ, đói rách và khủng hoảng tinh thần.
Trong thảm tuyệt tận cùng này, người quốc
gia từ công chức, cảnh sát, cán bộ cho tới các quân binh chủng của
QLVNCH, ai nấy đều chấp nhận cái chết, chịu ở lại, đổi mạng mình, để đem
lại sự bình an hạnh phúc cho hậu phương mà hận nhất là phải bảo vệ mạng
sống cỏ rơm cho tên ký sinh trùng TRỊNH CÔNG SƠN phản tặc và phản
chiến, đâm sau lưng nười lính người dân bằng những ca khúc được vót nhọn
bằng mã tấu dao găm chữ nghĩa.
Thắm thiết biết là bao, đó là sự đùm bọc
đồng bào như chính bản thân mình. Những khẩu phần lương khô ít ỏi, những
ngụm nước uống thiếu vệ sinh cùng với những sớt chia sự nguy hiểm quanh
quanh, đều là những viên thuốc thần dược, xoa dịu và an ủi niềm đau bất
hạnh của đồng bào trong lúc nguy khốn. Chẳng những thế, đối với cán
binh bộ đội giặc, bị bắt làm tù binh, cũng được người lính đối xử nhân
đạo với tình đồng bào, mà không hề phân biệt Nam-Bắc, dù thực chất Hà
Nội luôn coi đồng bào Miền Nam là kẻ tử thù.
Trần Đức, một người lính nhẩy dù, trên
đường tiến quân tái chiếm Quảng Trị, khi ngang qua Đại Lộ Kinh Hoàng, đã
không cầm nổi nước mắt, giữa hàng trăm, hàng ngàn xác chết bên cạnh
những chiếc xe đạp, xe gắn máy, nằm ngổn ngang, chỏng gọng, những gồng
gánh, bao bọc bị đạn pháo đổ ra tung tóe.
Những chiếc xe jeep, xe thùng hồng thập
tự, vết đạn xuyên lỗ chỗ. Ngọn gió Lào nóng rát mặt đẩy đưa cánh cửa xe
cho thấy những xác người nằm trên băng ca, những cọng băng phất phơ chỉ
còn bám vào bộ xương khô bởi mấy rẽ xương sườn. Có bộ xương em bé nằm
trên bộ xương người mẹ dưới một bụi gai. Có xác khô đét như người tiền
sử nằm giữa đám cỏ may bên lề đại lộ. Có xác nằm sấp, có xác nằm co như
còn mong bờ đất dưới ruộng che chở cho mình thoát tầm đạn giặc.
Đó đây, giữa đám xác người, rải rác những
đuôi đạn súng cối 61 lý và B40.Thì ra cộng quân đã đứng rất gần để tác
xạ vào đám dân Quảng Trị chạy loạn. Họ đã bắn như bắn bia. Bắn cho chết
đến người cuối cùng. Bất kể đàn ông, đàn bà. Bất kể người già hay trẻ
thơ. Thật là rùng rợn. Hình ảnh này trong trận tấn công “Mùa Hè Dỏ Lửa
năm 1972” ghi sâu mãi mãi trong ký ức của những người đã chứng kiến thảm
cảnh người dân Quảng Trị phải gánh chịu và tội ác chiến tranh của cọng
sản Bắc Việt.
Đoạn đường mang tên “Dại Lộ Kinh Hoàng”
nay không còn xác chết, không còn dấu vết của tội ác. Họ đã được thân
nhân mang về mai táng ngay sau đó. Sau tháng 5- 1975, đất nước đắm chìm
trong tù gông nô lệ cũa thực dân VC, vì vậy hằng năm đến ngày giỗ tập
thể, hàng ngàn gia đình ở vùng quê hương Quảng Trị chỉ âm thầm thắp nén
hương thơm tưởng nhớ.
Không ai dám hé răng nửa lời. Có những
người không còn thân nhân thì mồ hoang, mả lạnh, không chút khói hương.
Nghĩ đến xót xa làm sao! Họ đã chết tức tưởi mà đến nay họ còn u uất nơi
bờ cao bụi rậm, không sao siêu thoát được. Hẳn họ không sao có thể ngờ
dược là 30 năm sau, người đời vẫn còn nhớ thương họ. Vào ngày 28-4 đến
ngày 2-5-2002 vừa qua, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng
Trị đã tổ chức tại chùa Long An thuộc quận Triệu Phong đàn tràng cầu
siêu cho những nạn nhân bị Cộng Sản sát hại trong trận chiến Mùa Hè Dỏ
Lửa năm 1972 tại Quảng Trị., mặc dù chính quyền địa phương đã cho cán bộ
đi từng nhà để ngăn cản, đe dọa, chặn đường, cấm cho thuê xẹ Thượng tọa
Thích Hải Tạng, trụ trì chùa Long An cho biết, nhân dịp này, đồng bào
đã mang hàng trăm linh vị các nạn nhân của cộng sản trong Mùa Hè Dỏ Lửa
đến chùa để xin được giải oan siêu thoát.
Mới đây báo đảng lại la ó lên vụ lính Mỹ
thảm sát đồng bào Bắc Hàn trong chiến tranh Triều Tiên năm 1950. Báo
viết lính Mỹ gài mìn hai bên cầu Nogunri, để làm chậm đà tiến quân Bắc
Cao. Sau đó vì hốt hoảng hay lý do nào khác, khiến lính Mỹ hạ sát hằng
trăm người tị nạn đang trốn dưới vòm cầu. Bài viết rất mơ hồ, khi chỉ
nghe mờ mịt và đang trong vòng tranh cải.
Khi viết tin trên, không biết VC có khi
nào sám hối về những hành động bắn giết đồng bào mình, trong cuộc chiến
vừa qua và sau đó cứ tiếp tục tàn sát cho tới nay vẫn chưa dừng tay. Đau
đớn và nhục nhã nhất là VC lúc nào cũng xua công an bộ đội tàn sát
người dân vô tội khắp nước, trong khi đó thì quì mọp sát đất dang biển
bán đảo cho Tàu Đỏ một cách đê hèn.
Nhưng đâu có gì la vì mang nợ thì phải trả nợ thế thôi.
Bởi vậy ngậm máu phun người, trước dơ
miệng mình và trên hết chỉ làm trò cười cho kẻ khác mà thôi.
Ba chục năm
máu lửa (1945-1975) chỉ vì trành dành quyền lực mà Hồ Chí Minh và đảng
CSVN đã tìm đủ mọc cách, trong đó bi thảm nhất là đem giang sơn gấm vốc
Hồng Lạc để đánh đổi với Tàu đỏ để có súng đạn và phương tiện mang về
giết hại đồng bào. Rồi cũng chỉ vì muốn bảo vệ chiếc ngai vàng đẳm máu,
đảng CSVN lại cúi đầu nhắm mắt đem cẩm tú non sông Việt bán dần mòn cho
giặc cướp phương Bắc. Trong khi đó vẫn thẳng tay tàn sát đồng bào mình.
Nghiệt ngã của Dân Tộc Việt là thế đó.
Vậy mà còn nhiều tên việt gian tại hải ngoại cứ dững dưng ca tụng Hồ và
đòi hòa hop hoà giải với vòng ôm lớn cùng VC.
Viết tại Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 3-2015
MƯỜNG GIANG
No comments:
Post a Comment