Nếu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được đánh một trận thư hùng với đoàn
quân xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt, thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chắc
chắn sẽ Chiến Thắng!
Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa không được đánh một trận thư hùng cuối cùng với
Cộng sản Bắc Việt; và vì đã không được Chiến, nên Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa không hề có “bại ”!
* * *
Kể
từ ngày Quốc Hận 30/04/1975, khi đất nước Việt Nam Cộng Hòa đã bị rơi
vào tay của Cộng sản Hà Nội, cho tới giờ này, người viết đã thấy trên
các báo chí, các diễn đàn, nhất là từ khi có “Phong trào nhạc Vàng” quay
trở lại ở trong nước, thì thường có câu “Việt cộng luôn sợ cái bóng ma của Việt Nam Cộng Hòa”.
Thế nhưng, người viết bài này, luôn có một niềm tin vững chắc rằng:
Sau 42 mùa Quốc Hận, nhưng Việt Nam Cộng Hòa không phải là “cái bóng ma”, mà Việt Nam Cộng Hòa vẫn Sống!
Chính
bạo quyền Cộng sản Hà Nội cũng biết như thế, nên chúng mới lo sợ – Sợ
lá Cờ Vàng – Sợ bộ Quân phục của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa – Sợ những
lời ca viết về Người Lính Việt Nam Cộng Hòa – Sợ tất cả những gì thuộc
về Việt Nam Cộng Hòa. Và hơn hết, là sợ mất chế độ – Sợ phải đền tội
trước toàn dân – Sợ chết!
Chính
vì vậy, ngay từ sau ngày Quốc Hận 30/04/1975, Cộng sản Việt Nam đã cố
tìm mọi cách để “giết chết”; đặc biệt là nền Giáo dục của Việt Nam Cộng
Hòa, và những tác phẩm văn học như: Phim, ảnh, sách, truyện, tiểu
thuyết, thơ và âm nhạc, nhất là những bài hát về Người Lính Việt Nam
Cộng Hòa. Thế nhưng, bạo quyền Cộng sản Hà Nội vẫn không thể “giết chết”
được những hình ảnh của Việt Nam Cộng Hòa. Bởi thế, nên Việt
Nam Cộng Hòa vẫn Sống. Sống như những Người Lính của Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa đã Sống – Sống hiên ngang – Sống hào hùng – Sống lẫm liệt –
Sống cận kề với cái chết, đối diện với quân thù suốt hơn 20 năm trong
lửa khói trên khắp chiến trường xưa. Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa
dẫu đã phơi xương nơi chiến địa, đã rời ra trần thế; nhưng những hình
ảnh của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa đời đời vẫn Sống. Sống trong tâm
thức của mọi người dân Việt biết yêu Quê Hương và Dân Tộc!
Ngược
dòng lịch sử, về biến cố đau thương sau những ngày 30/04/1975, Cộng sản
Hà Nội đã từng bắt bỏ tù những người lưu giữ những sách, báo, băng
nhạc, và “đốt sách” chẳng khác Tần Thủy (Thỉ) Hoàng; nhưng Cộng sản Hà
Nội không cấm được những hình ảnh của đất nước Việt Nam Cộng Hòa với
những cảnh sống tự do, nhân ái, trong ký ức của người dân miền Nam đã
từng được sống dưới thể chế Cộng Hòa từ 1954-1975.
Đồng
thời, Cộng sản Hà Nội vì luôn lo sợ tinh thần yêu nước và ý chí bất
khuất của Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa, có thể sẽ cùng nhau đứng
lên đánh đổ bạo quyền Cộng sản, nên ngay sau khi cưỡng chiếm được miền
Nam, Hà Nội đã bắt bỏ tù tất cả những Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa, là những vị đã được đào luyện, xuất thân từ các Quân trường khác
nhau, để trở thành những vị Chỉ huy trên các chiến trường. Ngoài ra, bạo
quyền Cộng sản cũng tìm mọi cách để cướp nhà cửa, tài sản các vị Sĩ
Quan đã vào tù “cải tạo” cũng như các vị Hạ Sĩ Quan và các Chiến sĩ Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa, bằng cách đày gia đình họ phải rởi bỏ thành phố,
lên những “vùng kinh tế mới” nơi rừng núi hoang vu, đất đá khô cằn, với
mục đích, để cho họ phải chết vì đói và bệnh tật.
Cùng
thời điểm ấy, Cộng sản Hà Nội cũng đã bỏ tù các vị thuộc các Chính đảng
– Các vị thuộc các cấp trong chính quyền của Việt Nam Cộng Hòa và các
Văn nghệ sĩ, trí thức không chấp nhận Cộng sản. Trong số ấy, có nhiều
người đã bị Cộng sản giết chết, đày đọa bằng nhiều cách vô cùng độc ác
trong các nhà tù “cải tạo”. Có nhiều vị đã bị cùm kẹp, đánh đập tàn bạo,
bỏ chết đói, ở những nơi rừng thiêng núi thẳm, trên khắp cả ba miền
Trung-Nam-Bắc.
Cho
đến hôm nay, khi nhắc lại ngày 30 tháng Tư năm 1975, sau khi cướp được
đất nước Việt Nam Cộng Hòa, dẫu không nói ra, nhưng bạo quyền Hà Nội
phải tâm phục trước những vị anh hùng đã tuẫn quốc như: Nguyễn Khoa Nam,
Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vĩ… Đặc biệt là cách
tuẫn quốc của Trung tá Cảnh sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long, mà hình ảnh
đã được một phóng viên người Pháp ghi lại, để mãi mãi hậu thế còn thấy
và kính phục muôn đời.
Đoạn phim Tuẩn Tiết của cố Trung Tá Nguyễn Văn LongKhi nhắc đến những điều này, mọi người, ai cũng thấy: “Quân đội” của Cộng sản Việt Nam chưa hề, và không bao giờ có được một người như các vị Anh Hùng của Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa.
Và
hậu thế sẽ không bao giờ quên được những tấm gương trung liệt của Đại
tá Hồ Ngọc Cẩn, đã chấp nhận cái chết, không đầu hàng giặc Cộng. Ngoài
những vị anh hùng đã tuẫn quốc mà mọi người biết tên, biết mặt qua những
hình ảnh. Chúng ta, là con dân của nước Việt Nam Cộng Hòa còn có những
vị anh hùng cũng đã tuẫn quốc qua các nhân chứng bằng những bài viết đầy
tự hào, nhưng cũng thấm đẫm những dòng máu và nước mắt!
Tôi đã đọc nhiều lần Hồi ký của Thiếu tá Vương Mộng Long với những hình ảnh bi hùng của người lính Việt Nam Cộng Hòa ở “Cuối Đường”:
Xin được trích đoạn như sau:
“…Chua
xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y
Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt:
– “Thiếu tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu tá ơi! Hu…hu..hu…
Có
ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu? Tôi
biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết,
ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác
hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH
được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ?
Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu
hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi
đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau.
Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt.
Trên
mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ
sĩ Phi đã gãy nát. Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh
xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt
lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống
ruộng”.
Tôi biết, có một số người, khi đọc “Cuối Đường” của Thiếu tá Vương Mộng Long sẽ khó có thể hiểu được nhiều về những người lính Biệt Động Quân Biên Phòng.
Vậy,
nhân đây, vì giới hạn của một bài viết, nên tôi chỉ xin nói qua đôi nét
về những người lính mà nhiều người đã gọi là “Biệt Kích Mỹ” hay “Dân Sự
Chiến Đấu”, về sau đã được “cải tuyển” sang các Tiểu đoàn Biệt Động
Quân Biên Phòng như sau:
Từ
năm 1965, khi Quân đội Hoa Kỳ đặt chân đến thành phố Đà Nẵng, thì sau
đó, họ đã thành lập các “Căn Cứ” thường gọi là “Trại” Lực Lượng Đặc Biệt
trên Bốn Vùng Chiến Thuật. Mỗi vùng, đặt một Bộ Chỉ Huy như: Bộ Chỉ Huy
C1, C2, C3, C4. Tại các Trại ở những vùng biên phòng xa xôi ấy, họ đã
tuyển mộ các lính “Biệt Kích” thường gọi là “Biệt Kích Mỹ”.
Ở
các vùng này, mọi thanh niên, thiếu nữ, nếu muốn, đều có thể đến ghi
danh tình nguyện làm lính “Biệt Kích”. Tôi xin nhắc lại, những người
lính “Biệt Kích” đều hoàn toàn Tình Nguyện, chứ không một ai bắt buộc họ
cả. Trong số này, tôi biết, có một số thanh niên, là bạn hữu của tôi,
đã có bằng Tú tài toàn phần (Tú tài 2); nhưng không đi vào các Quân
trường, để trở thành Sĩ Quan, mà thích đi làm “Biệt Kích”. Họ nói: “Tui
thích bộ áo quần rằn ri, thích con Cọp trắng “phi thân” ngang chiếc dù,
thích đời lính phong sương sống cùng trại với các Ông Lực Lượng Đặc
Biệt, nên muốn đi lính Biệt Kích, dù ở những nơi núi rừng, sát nách với
Việt cộng, mau chết lắm”.
Quả
thật, đúng như vậy, vì các Trại này, ở những vùng rừng núi xa xôi, nên
có nhiều người của các sắc dân khác nhau. Nhưng cần phải ghi nhớ, Việt
Nam gồm Bách Việt.
Trong
“đoàn quân” Bách Việt ấy, đã có những người lính “Biệt Kích” vô cùng
dũng cảm, như Thiếu tá Vương Mộng Long đã viết trong Hồi ký Cuối Đường.
Trong
khuôn khổ của bài này, tôi không thể viết nhiều hơn, mà chỉ xin nói
gọn, là đến năm 1971, thì hầu hết những người lính “Biệt Kích Mỹ” đã
được “Cải tuyển” thành Biệt Động Quân Biên Phòng, và họ được đưa về các
Tiểu đoàn khác nhau.
Tôi
biết những trại như: Minh Long, Ba Tơ, Trà Bồng, An Phước… Thuộc Bộ chỉ
Huy C1 – Lực Lượng Đặc Biệt KBC 3420. Sau này, trại Trà Bồng, trở thành
Tiểu đoàn 61, Biệt Động Quân Biên Phòng, KBC 7509; Trại An Phước, trước
đó KBC 3425, đã trở thành Tiểu đoàn 79, Biệt Động Quân Biên Phòng, KBC
7545…
Nhưng có mấy ai biết rằng: Những “Hạ sĩ Đinh Lít… Thằng Y Don Near… Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt…”
ấy. Họ là những cựu “Biệt Kích Mỹ” hay “Dân Sự Chiến Đấu”. Họ đã từng
được huấn luyện trước khi cầm súng ra các chiến trường, chứ không phải
là “Dân Sự…”. Họ là những người lính với tinh thần chiến đấu dũng cảm
cho đến chết, mà Thiếu tá Vương Mộng Long đã ghi lại.
Cũng
nên biết, những cựu “Biệt Kích Mỹ – Dân Sự Chiến Đấu”, nếu họ không
chết, không bị Cộng quân bắt đưa ra đất Bắc, thì sau này, họ đều được
“Cải tuyển” sang các Tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng.
Những người lính như “Hạ sĩ Đinh Lít… Y Don Near …”, cũng như những Chiến sĩ Nhân dân Tự Vệ
ở Hố Nai đã cầm súng đối đầu với quân giặc cho đến phút cuối cùng của
cuộc chiến. Họ xứng đáng là Chiến sĩ, hơn hẳn những kẻ được học hành
dưới các mái trường của Việt Nam Cộng Hòa; được cho đi “Tu Học” ở các
nước Âu-Mỹ, để rồi, trong thời gian ở ngoại quốc, họ luôn tận dụng nhiều
âm mưu và thủ đoạn để đâm, chém sau lưng của người Chiến sĩ Việt Nam
Cộng Hòa. Họ đã đi khắp nơi, để kêu gào “phản chiến” đòi Mỹ phải rút
quân, đòi “Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa phải từ chức” ngưng oanh kích vào
các vùng đất đã bị Cộng quân đánh chiếm và kiểm soát; đòi thả hết tù
bình Cộng sản. Nhưng, tuyệt đối, họ không đòi quân xâm lăng của nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải rút khỏi lãnh thổ của nước Việt Nam Cộng
Hòa, phải ngưng pháo kích vào các thành phố tại miền Nam, để giết chết
đồng bào và trẻ em vô tội. Họ cũng không hề nhắc đến số phận của những
Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã bị Cộng quân bắt bỏ tù ở miền Nam, hoặc
đưa ra đất Bắc!
Hãy
nhìn những hình ảnh trong video này, để phải “tát” vào mặt những tên
“phản chiến” hay Phản Quốc, vì vào ngày 30/04/1975, những kẻ này đã hớn
hở, vui mừng, cầm lá cờ của “Mặt trận Giải phóng MN” đi đón rước Cộng
quân vào các thành phố tại miền Nam. Bọn chúng không xứng đáng để được
“sờ” vào cái gót giày của các Chiến sĩ Nhân Dân Tự Vệ ở Hố Nai, cũng như
những “Hạ sĩ Đinh Lít… Thằng Y Don Near… Những bàn tay đen đủi Bana,
Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt…”
Nhân Dân Tự Vệ tại Hố Nai, Long Khánh 29/04/1975:
Người viết đã từng chứng kiến đời sống gian nguy của các Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, ở những nói tiền đồn xa xôi, và cũng đã đến tận những nơi địa đầu, giới tuyến, từng vuốt mắt cho các Anh Chiến Sĩ VNCH đã hy sinh trong những trận chiến với quân thù, khi thấy các Anh đã chết, nhưng không nhắm mắt; từng ngồi nhìn ánh hỏa châu soi sáng trên những vùng núi hoang vu cùng với tiếng súng giao tranh với Cộng quân; từng nhìn những đôi Cánh Thép vượt phi đạo, chao lượn trên không, rồi xuống thấp, để ném những quả bom, chụp xuống đầu lũ quân thù xâm lăng,
nên vẫn thường xem lại trên YouTube bài
Phi Vụ Hành Quân Cuối Cùng:
Nhưng
không phải chỉ đôi ba bài viết, mà 42 năm qua, người viết vẫn thường
tìm xem những đoạn phim về những người Lính Việt Nam Cộng Hòa, và đọc
những Hồi Ký của các tác giả đã kể lại những cuộc chiến đấu anh dũng của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và mỗi lần đọc, tôi lại khóc. Khóc vì Tiếc, vì Thương, và vì uất hận cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử, vì tôi trước ngày mất nước, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn thừa sức để chiến đấu với Cộng quân, vì tôi tin rằng: Ngày
30/04/1975; Nếu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được đánh một trận thư hùng
với đoàn quân xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt, thì Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa chắc chắn sẽ Chiến Thắng!
Và
cho đến giờ này, tôi vẫn tin như vậy. Bởi chỉ cần nhìn lại cuộc “Tổng
công kích” Tết Mậu Thân, 1968. Lúc ấy, đa số các Chiến sĩ đã về nhà ăn
Tết với gia đình theo “Lệnh Hưu chiến 3 ngày”. Vì vậy, Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa chỉ còn có phân nửa tại các đơn vị.
Chính vì vậy, lịch sử đã chứng minh: Trong
trận chiến Tết Mậu Thân, 1968, chỉ có phân nửa quân số của Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, mà cả đoàn quân xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt, cộng
thêm với quân đội của Tầu cộng và Hàn cộng cải trang thành Việt cộng, mà
bọn chúng vẫn không chiếm được đất nước Việt Nam Cộng Hòa, thì vào
tháng Tư 1975, với lòng yêu nước nhiệt thành, với Tinh thần chiến đấu
dũng cảm – luôn luôn đặt Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm và Bảo Quốc An Dân
lên trên hết, thì chắc chắn trong trận chiến thư hùng này, Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa sẽ vùi chôn vĩnh viễn cái đoàn quân xâm lăng của Cộng sản
Bắc Việt.
Với những điều đã nêu trên, nên xin các vị cầm bút, cũng như không cầm bút, đừng viết hay đừng tự cho mình là “chiến bại”. Bởi, Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa không được đánh một trận thư hùng cuối cùng với
Cộng sản Bắc Việt; và vì đã không được Chiến, nên Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa không hề có “bại ”!
Chính
vì thế, nên dẫu đã 42 mùa Quốc Hận 30 tháng Tư, nhưng Việt Nam Cộng Hòa
vẫn Sống! Và Thể chế Việt Nam Cộng Hòa – Với các Chính đảng như: Đại
Việt – Việt Nam Quốc Dân Đảng – Việt Nam Nhân Xã Đảng- Dân Xã Đảng… Là
những chính đảng, có đa số người chống Cộng thực sự, đã từng đóng góp
công sức với chính quyền trong đại cuộc chống đoàn quân xâm lăng của
Cộng sản Bắc Việt, là những chính đảng thực hữu trong suốt hơn 20 năm,
từ 1954 – 1975. Cho đến sau ngày 30/04/1975, có nhiều vị đã bị Cộng sản
Hà Nội giết chết bằng nhiều cách trong và ngoài các nhà tù “cải tạo”.
Ngoài
ra, có những người dân lành vô tội đã bị bạo quyền Hà Nội cướp đoạt hết
tài sản, nhà cửa, đày ải họ lên vùng “kinh tế mới”, nên bắt buộc họ
đành phải liều chết tìm đường vượt biên, vượt biển, đi tìm tự do. Trong
số ấy, đã có nhiều phụ nữ và các bé gái đã bị rơi vào những bàn tay tàn
ác của hải tặc Thái Lan. Tất cả phải gánh chịu những đau đớn kinh hoàng,
trước khi chết một cách tức tưởi. Có những em gái chưa chết, nhưng đã
bị bọn hải tặc quăng xác sống xuống biển, làm mồi cho cá. Những tang
thương này không có bút mực nào diễn tả cho hết!
Kể từ những thảm cảnh ấy, cả thế giới đều biết, khiến cho họ đã “đặt tên” cho người Việt vượt biển chạy trốn Cộng sản là “Thuyền Nhân”. Và những hình ảnh của “Thuyền Nhân”
đã đi vào lịch sử của nhân loại. Một trang sử đầy đau thương và đẫm
nước mắt, với biết bao sinh mạng đã bỏ mình dưới lòng biển sâu lạnh lẽo!
Vượt Biên Sau 30/4/1975 – thuyền vượt biển lênh đênh trong vịnh Thái Lan
Ấy
thế, mà vừa qua, Cộng sản Hà Nội đã “cấm”, rồi lại “không cấm” hát 05
bản nhạc, trong đó, có bài: Cánh Thiệp đầu Xuân của Nhạc sĩ Minh Kỳ, và
Con đường xưa em đi, nhạc của Châu Kỳ, Lời của Hồ Đình Phương. Nên biết, Nhạc sĩ Minh Kỳ và Ông Hồ Đình Phương, là hai nạn nhân đã chết bởi bạo quyền Hà Nội.
Về
nhạc sĩ Châu Kỳ, Việt cộng đã cho ông bay từ Việt Nam sang Mỹ, để thâu
hình cho “Chương trình” nhạc của ông. Còn Ông Hồ Đình Phương đã bị Cộng
sản Hà Nội đẩy vào chỗ chết, nên “cấm” hay “không cấm” hát những bài hát
do Ông viết lời, Ông cũng không còn trên cõi đời này, để lên tiếng, hay
không lên tiếng.
Còn Nhạc sĩ Minh Kỳ, đã bị Việt cộng giết chết trong nhà tù “cải tạo”.
Vậy, nhân đây, người viết chỉ xin nói qua về Ông Hồ Đình Phương:
Trước
30/04/1975, Ông Hồ Đình Phương là một nhà thơ, nhà văn, đã viết cho
nhiều tờ báo, trong đó, có Bán Nguyệt San Văn Nghệ Tiền Phong của Ông Hồ
Anh Nguyễn Thanh Hoàng. Vì thế, Ông đã viết lời cho nhiều bản nhạc của
các Nhạc sĩ như: Lam Phương, Minh Kỳ, Châu Kỳ, Hoàng Trọng… mà mỗi lời
ca, như một bài thơ, thường ca ngợi miền Nam thanh bình vào thời kỳ đầu
của nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, cho đến thời chiến tranh khốc liệt,
những lời ca do ông viết đã đi vào lòng người, không bao giờ phai nhạt.
Riêng Ông Hồ Đình Phương, vào năm 1960, Ông từng là Phó Tỉnh trưởng Tỉnh Ninh Thuận.
Năm 1963, Ông giảng dạy tại trường Đại học Thương mại Đà Lạt, rồi giữ chức Giám đốc Công ty Kỹ nghệ Giấy Đồng Nai, Biên Hòa.
Sau
ngày 30/04/1975, Ông Hồ Đình Phương bị Việt cộng bắt vào nhà tù “cải
tạo”. Tháng 11/1979, khi ra tù, Ông cùng vợ là bà Trần Thị Ngọc Oanh và
bốn người con đã rời bỏ quê hương, lên đường vượt biển, chạy trốn Cộng
sản. Nhưng đau đớn thay! Cả Ông/Bà Hồ Đình Phương và bốn người con đều
đã “mất tích” trên biển Đông. Nghĩa là đã làm mồi cho cá, hay đã vùi
chôn thân xác dưới lòng đại dương!
Ông
Hồ Đình Phương, người đã viết lời cho rất nhiều bản nhạc, là một trong
vô số những cựu tù nhân chính trị dưới chế độ Cộng sản, một gia đình nạn
nhân của bạo quyền Cộng sản Hà Nội. Như vậy, giờ đây, Việt cộng có “cho
hát” hay “cấm” những bài ca có lời của Ông Hồ Đình Phương viết, cũng
như của các tác giả khác đã viết về Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, lại
càng khiến cho giới trẻ yêu thích những bài hát ấy nhiều hơn. Chẳng
những vậy, mà tất cả những bài hát, những sách, truyện, những phim, ảnh,
những bài thơ của các tác giả đã được phát hành tại miền Nam, đã từ lâu
lắm, cũng đã đi vào lòng của người dân miền Nam. Còn giờ đây, thì người
dân ở cả ba miền đất nước, khi vào Internet, họ đều thấy được đời sống
sung túc, tự do, no ấm dưới thể chế Việt Nam Cộng Hòa hơn hai mươi năm,
từ 1954-1975.
Những
hình ảnh trung thực ấy, mà kể từ ngày Quốc Hận 30/04/1975, Cộng sản Hà
Nội đã tìm mọi cách để “giết chết” tất cả những gì tươi sáng của miền
Nam, với mục đích, để giới trẻ không biết gì về Việt Nam Cộng Hòa. Thế
nhưng, kể từ ngày có Internet, thì Cộng sản Hà Nội không làm sao “cấm”
được giới trẻ khi muốn tìm hiểu về lịch sử. Vì vậy, ngày nay, giới trẻ
tại quốc nội đã biết rõ về Việt Nam Cộng Hòa, nên đã và đang hướng về
Việt Nam Cộng Hòa với lá Quốc Kỳ mầu Vàng Chính Nghĩa.
Viết
đến đây, người viết lại nhớ đến chuyện Khổng Minh bên Tầu. Khổng Minh
được đa số người đời ca tụng hết lời là “Vạn thế sư biểu”, với những
trận hỏa công nổi tiếng. Song, những ai chịu khó đọc về những “tài liệu
sách sử”, thì phải biết rằng: Cả đời Khổng Minh luôn muốn giết chết Tư
Mã Ý, mà đặc biệt, là trận hỏa công ở Hang Thượng Phương (Thượng Phương
Cốc), khi Khổng Minh cho quân vây hãm và lừa được ba cha con Tư Mã Ý
phải đi đến đường cùng, không còn lối đi nào khác, nên cả ba cha con của
Tư Mã Ý phải chạy vào Thượng Phương Cốc, thì Khổng Minh ra lệnh cho ném
những cây đuốc lớn bằng những bó củi, bó rơm vào hang, bịt kín hai đầu
hang lại, rồi reo mừng, vì tin chắc rằng cha con Tư Mã Ý phải chết.
Thế
nhưng, trong lúc Khổng Minh vui mừng vì “đắc thắng”, còn cha conTư Mã Ý
đang tuyệt vọng, nghĩ mình chờ chết, thì lạ lùng thay: Kỳ Sơn chín
tháng không hề có một giọt mưa, bỗng Trời đổ cơn mưa rất lớn, dập tắt
hết những ngọn lửa. Nhờ thế, cha con Tư Mã Ý thoát chết, chạy khỏi
Thượng Phương Cốc. Từ trận hỏa công này, mà theo dân gian lưu truyền cho
đến tận ngày nay rằng: Lúc ấy, Khổng Minh đã ngửa mặt lên Trời mà than:
“Mưu sự tại nhân; Thành sự tại Thiên!”
Và rồi, dẫu suốt đời, Khổng Minh luôn tìm mọi cách để giết Tư Mã Ý, nhưng cuối cùng Khổng Minh lại chết trước Tư Mã Ý.
Đảng
Cộng sản Việt Nam trong suốt 42 năm qua, lúc nào cũng muốn “giết chết”
những trang sử đẹp, những hình ảnh hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa – Của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa. Một thể chế đã thực hữu trong suốt
hơn 20 năm. Một Chính Quyền có đầy đủ Tam quyền Phân lập: Hành pháp,
Lập pháp, Tư pháp; có Tổng Thống, có Hiền Pháp, có Luỡng Viện Quốc Hội,
có Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với tinh thần chiến đấu vô cùng dũng cảm,
với những vị Anh Hùng, từ hàng Tướng lãnh, Sĩ Quan, Hạ Sĩ quan, cho đến
các Chiến Sĩ đã tuẫn quốc vào ngày mất nước. Các vị Anh Hùng ấy, dẫu biết được phương danh hay vô danh – Tất cả các vị đều đã đi vào Sử Xanh của dân tộc!
Cũng vậy: Mưu sự tại… Đảng Cộng sản Việt Nam; còn “Thành sự tại Thiên”, mà giờ đây, đã đến thời điểm, và thời cơ cho toàn dân Việt thoát khỏi “Hang Hồ Ly” hay “Hồ Ly Cốc”. Chúng
ta, tất cả người Việt Tỵ nạn Cộng sản tại hải ngoại hãy hướng về quốc
nội, hỗ trợ đồng bào bằng mọi cách, để quốc nội sẽ cùng nhau đứng lên,
sát cánh, kề vai dấn thân trên con đường Đại
Nghĩa, đấu tranh, giải trừ bạo quyền Cộng sản Hà Nội- Xây dựng lại một
nước Việt Nam Tự Do – Dân Chủ – Không Cộng sản!
Một
lần nữa, người viết xin nhắc lại: Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có những
“anh hùng” ma, như “anh hùng Lê Văn Tám”. Và Hà Nội cũng đã từng bịa đặt
ra một “anh hùng Nguyễn Văn Bé”, trong lúc Ông Nguyễn Văn Bé đã trở về
với Chính Nghĩa Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa theo chính sách Chiêu Hồi.
Sau 30/04/1975, Ông Nguyễn Văn Bé đã sang Hoa Kỳ, sống và chết trên đất
Mỹ. Ấy thế, mà cho đến thời điểm này, ở trong nước vẫn có những con
đường, những ngôi trường mang tên “anh hùng Nguyễn Văn Bé”.
Từ những điều đã chứng minh ở trên, nên Cộng
sản Việt Nam chỉ có những “anh hùng” ma, chứ chưa hề có, và không bao
giờ có được một con người như các vị Anh Hùng của Quân-Cán-Chính Việt
Nam Cộng Hòa, đã lẫm liệt tuẫn quốc vào ngày Quốc Hận 30/04/1975!
Tạm kết
Như đã thưa, qua tựa đề của bài này: Việt Nam Cộng Hòa vẫn Sống!
Nhưng
để Sống mãi mãi, bất tử với thời gian, giờ đây, đứng trước cảnh quốc
phá, gia vong, thì các con dân của nước Việt Nam Cộng Hòa, dẫu ở quốc
nội hay hải ngoại, cũng nên đồng tâm, hiệp ý, hỗ trợ những cuộc đấu
tranh đòi những quyền chính đáng của người dân, cũng như những cuộc biểu
tình của các dân oan ở cả ba miền đất nước. Họ là những người dân lành,
đã và đang bị bạo quyền Hà Nội cướp đoạt tài sản, đất đai, hoặc những
cuộc biểu tình đòi tống xuất “Khu công nghiệp” Formosa, và các “Đặc khu
kinh tế” của giặc Tầu, từ Hải Phòng, Cam Ranh, Đà Nẵng, Bình Dương, Tây
Nguyên…
Chúng ta phải hiểu rằng: Ngày nay, chúng ta không còn “chiến đấu” với bạo quyền Hà Nội bằng súng đạn trên các chiến trường, nên chúng ta cần phải tận dụng mọi Kế-Sách… trên Mặt Trận Đấu Tranh Chính Trị; Mà Đấu
Tranh Chính Trị, thì cần phải “Thiên biến, vạn hóa…” nhiều phương diện.
Đó là cách hữu hiệu nhất trên con đường đấu tranh để giải trừ đảng Cộng
sản Việt Nam!
Còn
một điều nữa, là hiện nay, có lẽ quý vị đã “thấy”, nên có nhiều người
lo ngại, không muốn ủng hộ những cuộc biểu tình của đồng bào trong nước,
vì đã nhận ra trong những cuộc biểu tình cũng như trên “mặt trận truyền
thông”, chống bạo quyền Cộng sản tại quốc nội cũng như ở hải ngoại, đều
có những tên Công an Việt cộng và tay sai của Hà Nội cài vào, như trước
năm 1975, Việt cộng cũng đưa người vào “Chiêu Hồi” giả vậy. Nhưng không
vì thế, mà chúng ta lo sợ và không ủng hộ những cuộc biểu tình; vì
chúng ta ủng hộ những người đấu tranh thật, còn thiểu số của Việt cộng
cài vào, cũng như một số tổ chức ngoại vi của bạo quyền Hà Nội… hoặc vài
tổ chức đã và đang có tham vọng, nghĩ rằng: “mình … sẽ dễ dàng ra tranh
thế cầm quyền hậu Cộng sản”. Mấy cái tổ chức này, đã và đang chen chân
vào các cuộc biểu tình, thì không đáng lo ngại. Đồng bào quốc nội có
cách để nhận diện ra… qua những cuộc biểu tình, cũng như những tay “anh
chị” đã và đang lên mặt liên tục “dạy đời” trên YouTube… Nhưng nếu tinh
mắt, theo dõi từng lời nói, thì chắc chắn sẽ hiểu, sẽ biết… Nhưng xin
mọi người cứ “bỏ lơ”; Bởi, chúng ta cần có nhiều, thật nhiều những “Anh
hùng Lương Sơn Bạc” thật…
Tuy
nhiên, xin hãy nhớ, Việt Nam Cộng Hòa vẫn Sống; nhưng không phải “sống”
qua mấy cái “chính phủ” và mấy cái “đảng” ma trơi kia, mà Sống trong
lòng của những người Việt Nam yêu nước chân chính!
Do
đó, nên chúng ta cần hỗ trợ những cuộc đấu tranh của đồng bào tại quốc
nội, cho đến một ngày, khi bạo quyền Cộng sản Việt Nam sụp đổ, thì lúc
ấy, bắt buộc phải có một “Ủy ban” một “Hội đồng” hay “Chính phủ lâm
thời…” có các Chính đảng thực hữu, đã một thời đi vào “Tranh đấu sử” trong suốt hơn hai mươi năm: 1954-1975, sẽ cùng ngồi lại, để quyết định một cuộc “Tổng Tuyển Cử”.
Xin các vị đừng lo lắng, vì nhân loại đang sống ở thiên niên kỷ thứ ba, không còn ở vào thời “Phong kiến”, nên đến
thời “hậu cộng sản”; Tuyệt đối, không có một cá nhân, hay một tổ chức
nào được có cái “quyền” đứng ra tự xưng là” Chính phủ” hay “Xưng
Vương-Xưng Đế” cả.
Bởi; đến lúc đó, mọi Công Dân Việt Nam có đủ Uy-Tín-Tài-Đức,
đều có thể ra tranh cử, để toàn dân dùng lá phiếu của mình sẽ bầu lên
người Lãnh đạo Quốc Gia – Thành lập Nội Các – Viết Hiến Pháp mới.
Và
trong một lần tham dự cuộc Biểu tình vào ngày Quốc Hận 30/4, người viết
đã nói trước cổng “Tòa đại sứ” của Việt cộng tại Luân-đôn, Anh quốc,
cũng như đã viết điều này nhiều lần rồi. Nhưng hôm nay, người viết vẫn
vững tin như thế, nên xin lập lại rằng:
Chế
độ của Tầu Cộng sẽ phải sụp đổ. Nước Tầu sẽ phải tan vỡ ra từng mảnh,
sẽ trở về với thời kỳ Lục quốc. Và bạo quyền Cộng sản Việt Nam chắc chắn
cũng sẽ phải sớm bị giải trừ. Một trang sử mới sẽ được mở ra. Toàn dân Việt sẽ được cùng nhau bắt nhịp trong khúc hát hoan ca:
Đẹp thay! Chính thể Cộng Hòa,
Vui thay! Tiếng hát câu ca Thanh Bình.
Cộng Hòa như ánh Bình Minh,
Như giòng nước mát, như tình lúa xanh.
Vui thay! Tiếng hát câu ca Thanh Bình.
Cộng Hòa như ánh Bình Minh,
Như giòng nước mát, như tình lúa xanh.
28/04/2017
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
No comments:
Post a Comment